Đang xem: Những Viên Kim Cương Trong Bất Đẳng Thức Toán Học -. Sử Dụng Phương Pháp Cauchy Schwarz Để Chứng Minh Bất Đẳng Thức - 83.000đ 66.400đ. Phương Pháp Giải Các Dạng Toán THPT - Bất Đẳng Thức, Giá Trị Lớn Nhất Và Nhỏ Nhất - 152.000đ 129.200đ. Phân Loại Và Phương Pháp Đánh giá kỹ thuật theo phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ mua sắm gói thầu theo Hiệp định CPTPP? Bên mời thầu tiếp nhận mở hồ sơ đề xuất về tài chính không qua mạng theo phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ mua sắm gói thầu theo Hiệp định CPTPP? Bên mời thầu tiếp nhận mở hồ sơ đề xuất về Đồng thời, hai bên xác định hợp tác văn hóa nghệ thuật chính là động lực thúc đẩy phát triển hơn nữa quan hệ song phương Việt Nam - Mexico, tăng cường tình đoàn kết, hữu nghị, sự hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân hai nước, đã được lãnh đạo cấp cao, nhân dân hai Bạn đang xem: Tuyển sinh 2022: 9 trường thuộc Đại học Đà Nẵng tuyển 14.550 chỉ tiêu tại thpttranhungdao.edu.vn (Trường THPT Trần Hưng Đạo) - Trong kỳ tuyển sinh 2022, 9 trường đại học trực thuộc Đại học Đà Nẵng dự kiến tuyển 14.550 thí sinh. Đại học Bách khoa đại học Kinh tế Đại Đọc tiếp Tình hình nghiên cứu phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư từ sau 1986. 31. 27 Sau 1986, hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng "cởi trói" cho văn nghệ, các văn nghệ sĩ cũng đã tự tìm cách cởi trói cho chính mình. Mảng hiện thực đổ vỡ của thời chiến Dịch Vụ Hỗ Trợ Vay Tiền Nhanh 1s. Nội dung của khóa luận được triển khai thành ba chương chương 1 hành trình sáng tạo của Mạc Ngôn; chương 2 phương thức trần thuật; chương 3 giọng điệu và ngôn ngữ trần thuật. TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH KHOA KHOA HỌC Xà HỘI ĐINH THỊ THÚY NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT THẬP TAM BỘ CỦA MẠC NGÔN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Ngành Sư phạm Ngữ Văn Hệ đào tạo chính quy Khóa học 2013 – 2015 Đồng Hới, 2015 TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH KHOA KHOA HỌC Xà HỘI ĐINH THỊ THÚY NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT THẬP TAM BỘ CỦA MẠC NGÔN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Ngành Sư phạm Ngữ Văn Hệ đào tạo chính quy Khóa học 2013 – 2015 Người hướng dẫn Nguyễn Thị Quế Thanh Đồng Hới, 2015 LỜI CẢM ƠN Xin trân trọng gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô giáo Nguyễn Thị Quế Thanh, người đã tận tình hướng dẫn tôi thực hiện và hoàn thành khóa luận này. Xin bày tỏ lòng biết ơn quý thầy cô giáo đã giảng dạy và đóng góp những ý kiến quý báu cho tôi trong quá trình học tập. Xin chân thành cảm ơn khoa Khoa học Xã hội, Phòng Đào tạo, Trường Đại học Quảng Bình đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi học tập và nghiên cứu. Cảm ơn những người thân yêu trong gia đình, bạn bè đã động viên giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và thực hiện khóa luận. Tác giả Đinh Thị Thúy LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và và kết quả nghiên cứu nêu trong khóa luận là trung thực, được các đồng tác giả cho phép sử dụng và chưa từng được công bố trong bất kì một công trình nào khác. Tác giả Đinh Thị Thúy MỤC LỤC MỞ ĐẦU. 1 do chọn đề tài 1 sử vấn đề 2 tượng và phạm vi nghiên cứu . 6 . Đối tượng nghiên cứu. . 49truyện khá dài do sự xuất hiện của nhiều đoạn miêu tả cảnh vật, diễn biến tâm trạng,khắc họa cụ thể về chân dung, nhắc lại những hồi ức xen lẫn vào khi trần tái hiện câu chuyện, Mạc Can đã thể hiện một lối kể chuyện khá độc đáokhông như lối kể truyền thống. Cốt truyện không theo trật tự biên niên mà phá vỡtính tuyến tính và tính thống nhất về thời gian của cốt truyện truyền thống. Cốttruyện của tiểu thuyết xoay quanh hai tuyến sự kiện và dòng hồi ức. Tuyến sự kiệnmở ra một câu chuyện thế sự về cuộc đời của những con người trôi dạt phiêu linh vềcơm áo ở Nam Bộ một thời. Chen vào đó là mảng hồi ức tâm tình đầy xúc cảm bấtchợt từ phía người kể, một kẻ sớm già trước tuổi khi chứng kiến quá nhiều nỗi đauthương của gia đình, của người thân trên con đường mưu sinh. Hai tuyến cốt truyệnnày hòa quyện, đan xen hầu như không theo một trật tự nào. Sự kiện, biến cố đãkhơi gợi những hồi ức suy tư miên man không dứt và trong dòng hồi ức suy tư ấy,sự kiện lại hiện về chắp nối quá khứ với hiện tại và góp phần dẫn dắt câu chuyện cứ thế dần được mở ra. Thủ pháp đồng hiện do đó đã được tác giả sửdụng có hiệu quả. Giữa những sự kiện được kể, hồi ức về quá khứ cứ ùa về chenngang dòng tự sự. Vì thế giữa các đoạn không có tính liên tục, liền kề, kết dính vềmặt trình tự theo tính nhân quả. Tác giả dường như không hề dụng công để sắp xếpcâu chuyện theo trình tự trước sau. Câu chuyện cứ tự nhiên chảy trôi theo dòng hồiức của nhân vật. Toàn bộ sự kiện đã được khúc xạ qua cái nhìn, cách cảm nhận chủquan và đã được chắt lọc qua tâm hồn đa cảm, đầy suy tư của người kể. Qua mànsương tâm tình của người kể, người đọc hiểu được những cảm xúc, suy tư và nhữngtrăn trở của nhân vật về kiếp người. Có lúc dòng chảy nội tâm đã trở thành đốitượng chính cho việc trần thuật và câu chuyện đã được dẫn dắt theo mạch độc thoạinội tâm trữ tình, lắng đọng chất suy tư, các ự kiện cũng được kể lại từ đó. Các sựkiện đã gắn kết với nhau từ những mảnh ghép rải rác suốt câu chuyện, trong đó cósự kiện được nói tới trong những cuộc đối thoại về sau của hai anh em, trong hồitưởng của anh Ba và cả những mảnh hồi ức vụn vặt khi nhớ khi quên của cô đàophóng dao khi về già phải sống như “một đứa trẻ già cỗi suy dinh dưỡng héo hắt,gầy nhom”. Ví như ở đoạn kể về cái đêm biểu diễn cuối cùng trước khi cô em bịnạn do anh mình phân tâm trong khi phóng dao, tác giả hoàn toàn không giải thíchnguyên nhân trước đó điều gì làm cho người anh phân tâm. Điều này chỉ được nói 50đến trong cuộc trò chuyện của hai anh em khi đã về già. Người đọc chỉ hiểu đượcnguyên nhân khi đọc đoạn đối thoại của Bà Tư nói với anh Ba của mình “Anh đâucó biết, tối hôm đó trước khi mở màn, chị Phương cho anh Hai biết tin chị có thai,cha chị nói chị phải về nhà ngay lập tức. Ông muốn gả chị cho người khác một cáchgấp rút, anh Hai mình phân tâm là đúng, nhưng tức cười… sự phân tâm này lại ảnhhưởng nặng nề tới nhiều người khác”[5, Và trong mảng hồi ức của cô đàophóng dao, người đọc mới hiểu được sự việc xảy ra trong đêm diễn kinh hoàng vànỗi đau của người phải dùng tính mạng của mình đánh đổi cho cuộc mưu sinh nhọcnhằn “Em cúi mặt xuống nhìn mảnh ván dưới sân khấu, biết bao lần em vẫn nhìnxuống chân mình để khỏi thấy những lưỡi dao. Lần này em nhìn máu của em nhỏxuống đó, một lưỡi dao chém vào bả vai, ban đầu em không thấy đau… mà ngạcnhiên, bởi vì em đâu có ngờ như vậy. Sau đó trộn lẫn với cái đau và những giọt máumới cảm thấy mình buồn rầu làm sao. Trên thế gian này chắc chỉ có mình em là cóđược nỗi buồn đó anh ơi”[5, phóng dao trong thực tế có lẽ chỉ diễn ra trong vài phút nhưng lại đượctác giả kể lại đến khoảng 15 trang. Nhịp điệu trần thuật như được kéo giãn ra chậmchạp chứ không đi nhanh đến kết thúc do nhiều lần sự việc bị cắt ngang bởi dòngsuy tư miên man không dứt của nhân vật. Và phần kết thúc đoạn truyện đầy kịchtính này không phải kể về màn phóng dao của người anh thành công hay không màlà suy tư của nhân vật “tôi” với câu hỏi muôn thuở “tại sao” đầy trăn trở, day dứt“tại sao tôi không được sống bình thường như những người khác chung quanh tôi,tại sao tôi dốt nát mê muội, tôi có quyền được sống làm người, được học hành, yêuthương và có hạnh phúc chứ”[5, sát Tấm ván phóng dao chúng tôi nhận thấy trong tác phẩm có đếnhơn 160 tác giả sử dụng dấu ba chấm lưng chừng trong câu. Đây là một dụng ýnghệ thuật, Mạc Can tạo ra khi đọc có cảm giác như chùn lại, có những khoảnglặng, khoảng trống mà người đọc cần suy nghĩ và điền vào điều mà tác giả chưa nóihết. Trong những giấc mơ của Anh Ba cũng thế, đang mơ màng, trôi cảm xúc theonhững ước vọng xa xôi, bỗng dưng lại giật mình tỉnh giấc. Anh Ba bàng hoàng, lânglâng không biết khi nào là thật, khi nào là mơ, anh lại đặt ra những câu hỏi “tại sao”,và khi đặt ra không bao giờ anh trả lời được. Phải chăng chính những chiêm 51nghiệm, suy tư của người đọc sẽ thay anh trả lời những câu hỏi trên một cách trọnvẹn hơn. Hay lúc Mẹ anh thường ngồi xem bói với những con bài đen đỏ. Dẫu bàbiết cuộc đời mình chẳng thể nào thay đổi được, nhưng bà vẫn hy vọng, niềm hyvọng mong manh còn sót lại như yếu tố tâm linh nào đó cầu mong cuộc đời bà, giađình có cuộc sống khá hơn. Đọc đến đây, nhịp điệu câu chuyện chậm rãi, dư âm củacảm xúc đọng lại, độc giả lắng lòng lại trước sự nhỏ bé của thân phận người, vậy, thông qua nhịp điệu trần thuật chậm rãi, khoan thai Mạc Can đãtìm được nhịp điệu trần thuật phù hợp để tái hiện sinh động thế giới tâm hồn sâu sắccủa con người. Tiểu thuyết gợi cảm giác dàn trải, kết cấu không theo tuyến tính thờigian, có sự kết hợp linh hoạt giữa kể, miêu tả nội tâm, độc thoại và hồi tưởng. Đằngsau tác phẩm như ẩn vào đấy con người của chính nhà văn, đồng thời gửi gắm baonhiêu tâm tư, cách nhìn nhận, khám phá về cuộc sống của những người nghệ sĩ phảilà kiếp tằm nhả tơ trả nợ cho đời. Chính nhịp điệu này đã góp phần hình thành nênnét trần thuật đặc sắc, ấn tượng trong tiểu thuyết của Nhịp điệu trần thuật nhanh, gấp gápBiến cố và thời gian vận động sẽ ảnh hưởng, chi phối tốc độ, nhịp điệu trầnthuật trong tác phẩm. Với một biến cố lớn xảy ra trong một khoảng thời gian ngắnthì sẽ gây ấn tượng về sự trôi chảy nhanh chóng của thời gian. Ngược lại, biến cố ítsẽ gây ấn tượng về sự chậm chạp. Yếu tố tạo nên nhịp điệu trần thuật là những hiệntượng, sự kiện, tình tiết được đan cài, xen kẽ bởi các thủ pháp của nhà văn. Ngoàira, theo quan niệm của Genette thì muốn khám phá nhịp điệu trần thuật trong tổngthể chung của tác phẩm tự sự, đầu tiên phải xem xét về các vận động từ trong vănbản. Genette khẳng định rằng “nếu đem số trang dành cho một một vài sự kiệnhoặc một một vài phần của văn bản truyện để chỉ khoảng thời gian thực tế năm,tháng, ngày… tương ứng của câu chuyện được kể thì sẽ thấy được sự biến đổi củanhịp điệu kể chuyện” dẫn lại theo Nguyễn Mạnh Quỳnh.Trong tiểu thuyết Tấm ván phóng dao của Mạc Can, chúng tôi nhận thấy tácgiả kể với nhịp điệu nhanh, nhiều đoạn diễn biến mạch truyện gấp gáp. Mặc dù,trong tác phẩm này, cốt truyện không nhiều sự kiện, song do áp lực của thời gian vàthủ pháp kể của tác giả nên diễn biến tâm lý của nhân vật, của các sự kiện, biến cố 52vận động liên tục đã tạo ra nhịp kể nhanh, gấp gáp. Phải chăng đây là cách nhà vănmuốn hướng câu chuyện hiện thực khách quan đoạn diễn ra màn phóng dao, những sự kiện, chi tiết không được sắpxếp theo trình tự tự nhiên mà xáo trộn, đảo lộn thời gian đan xen giữa quá khứ vàhiện tại. Người đọc phải kết nối các sự kiện trong dòng hồi ức của nhân vật thì mớibiết được sự việc đã xảy ra. Nghệ thuật kể chuyện đã tạo cho người đọc cảm giáccăng thẳng hồi hộp như đang xem một bộ phim có nhiều kịch tính. Những âm thanhsống động, tạp nham của rạp hát làm cho mọi thứ như khẩn trương hơn “Vẳng lại từtrước tấm màn nhung dầy mo, là một cõi nào khác, luôn luôn là tiếng náo động nhưđịa ngục, tiếng nói chuyện ồn ào, tiếng cãi nhau, kích động, chửi thề, tiếng con nítkhóc, tranh giành chen lấn chỗ ngồi. Tiếng rao bán quạt giấy, mía ghim, cốc ổi, lẫntrong không khí nóng nực, nồng nặc mùi hôi, mùi thuốc lá nặng, mùi nước giải vàphân dơi”[5, Khi ấy người anh đã phân tâm lúc đang điều khiển mười hailưỡi dao phóng về phía tấm ván mà ở đó có cô em gái tội nghiệp đang đứng. Mànphóng dao được miêu tả đầy căng thẳng từng bước một, từ lúc anh Ba làm cái việcthường ngày là tưới cho mềm tấm ván rồi vác nó lên sân khấu đến từng hành động,cử chỉ của diễn viên biểu diễn khi lần lượt xuất hiện để bắt đầu cho màn diễn. Vàtrước mỗi lần phóng dao, “người cõi trên” đứng sau tấm ván luôn mang trong ngườitâm trạng bàng hoàng, lo lắng cho đứa em gái “trái tim tôi cứ đau nhói trước giờbiểu diễn, trong bối cảnh mọi người đều hân hoan, hàng ngàn lần không lần nàokhác, đêm nay anh tôi khác thường hơn mọi đêm, tim tôi càng đập mạnh hơn”[5, Khi người đọc căng thẳng chờ đợi sự việc xảy ra thì tác giả lại hướng sựchú ý của người đọc đến những yếu tố bên ngoài Điệp bị đám du côn vây đánh, hìnhảnh Phương ngồi ở hàng ghế khán giả đàng sau là người đàn ông lạ. “Chếch về phíatrái sân khấu có một người làm tôi khó rời mắt, người đàn ông nầy cao tới nỗi bấtbình thường, ông ta nổi bật trong đám đông, trên ngực mang chiếc máy ảnh lớn, cũkỹ, đôi mắt như cá chết đục ngầu, u ám lạ kỳ, ông ta chính là, con cá ngồi sau lưngchị Phương, con cá nầy bơi tới gần sân khấu từ lúc nào tôi không biết. Tôi chưa biếtmặt quỷ sứ, như mẹ tôi thường kể chuyện con người lúc chết, lũ quỷ kéo tới mà kẻnầy là hiện thân. Chung quanh ông ta là một cái gì lạnh tanh mờ tối, hầu như khôngcó ai trông thấy ông ta ngoài tôi, ông ta nháy mắt với tôi, rồi dùng một ngón tay chỉ 53lên môi, bỗng nhiên tôi run lên khi nhìn cặp môi ông ta động đậy tôi nghe vẳng lạitiếng thì thầm khàn đục Con dao, con dao?”[5, Những chi tiết này có thểlàm cho người đọc phân tán sự chú ý theo dõi nhưng lại có tác dụng gia tăng sự hồihộp chờ đợi kết cục câu chuyện khi sự việc đang ở cao trào “Chú Thành lia haichiếc đùi trống, lần nầy ở rìa mảnh da dê, trên mảnh da con vật chết khô tan xác tộinghiệp, căng cực thẳng ba sợi lò xo, động, nhẹ tới nó lập tức nó kêu lên, một giọngthan rè rè. Đây là thế phóng dao nghiêng người, người phóng dao xoay tròn theo vàinhịp nhạc, người đứng trước tấm ván phải khom lưng, cúi đầu cho những lưỡi daocắm chung quanh cằm và gáy. Tai tôi đã quá quen với tiếng trống của chú Thành,cứ mỗi lần lưỡi dao của trò- phóng- chung- quanh- đầu nầy phô diễn, dao cắm vàomảnh ván, chú lại đập dùi lên cái dĩa đồng”[5, Chen vào đó là dòng tâm lýcũng đang diễn ra căng thẳng của chính người kể, người anh Ba đứng sau tấm vánđang hồi hộp lo âu cho số phận của em gái và dự đoán có điều bất thường sắp xảyra. Người đọc như nghẹt thở, thấp thỏm chờ đợi sự việc tiếp theo là như thế nào khi“Tôi- nín- thở- đếm- theo- từng- tiếng- đĩa- đồng- vang một... hai... ba... bốn...năm... sáu... bảy... tám... chín. Trong không khí nóng như lửa địa ngục, tôi nhìn thấycả những người cởi trần, đang hết sức khích động, có người nhảy chồm lên lưng ghếnồng nhiệt vỗ tay, nhiều tiếng chắc lưỡi ghê rợn, đám con nít vẫn cứ chen lấn trênthềm sân khấu cạnh ban nhạc đệm”[5, Đó không phải là những biểu hiệntâm lý đơn giản mà là một phức hợp những sắc thái cảm xúc đan xen hồi hộp, lolắng, đau đớn, phẫn uất như điên cuồng muốn đập phá một cái gì đó để giải tỏa,thậm chí anh đã nắm lấy cán con dao làm cá của người mẹ mà anh luôn giắt sau tấmván. Mọi phẫn uất, tức tưởi, xót xa bấy lâu nay bị dồn nén quá mức, chỉ cần một lựcnhỏ tác động thì mọi kiềm nén bấy lâu đã bật tung. Đến đây tác phẩm như có độcăng hết mức, sức dồn nén đến mức tối đa, không được một trang giấy nhưng lại tạothành chấn động, những mảnh chắp vá của cuộc đời ám ảnh theo suốt cuộc đời củaÔng Ba và Bà chung, ở tác phẩm, nhà văn chú ý xây dựng tình huống giàu kịch tính,sử dụng nhiều đối thoại ngắn để tạo độ căng cho mạch truyện. Với sự lựa chọn này,nhà văn đẩy nhân vật vào những hành động mang tính bước ngoặt nên nhịp điệu 54trần thuật chủ yếu nhanh, gấp gáp, tuy nhiên nhịp điệu này không có nhiều trongtiểu ván phóng dao là lát cắt từ những mảnh ghép vụn vặt cuộc đời gia đìnhgánh xiếc Nghệ Tinh. Chỉ vỏn vẹn không đầy 200 trang, nhưng nó là bản hòa tấuâm hưởng giàu cung bậc. Từ nhẹ nhàng, sâu lắng bởi những khúc ca du dương, âmthanh ngọt ngào dịu êm của khung cảnh xóm nghèo nơi miền quê Lục tỉnh. Đếnnhững âm thanh bổng trầm đôi khi lạc điệu bởi những giấc mơ của Anh Ba, bị đứtchừng khi choàng tỉnh giấc. Tất cả như điệu slow chậm rãi, khoan thai, để lại dư batrong lòng độc giả. Có lúc lại ngân vang, réo rắt thôi thúc chờ đợi sự việc tiếp theo,căng thẳng đến nghẹt thở. Bản giao hưởng ấy phải chăng là “cung đàn lỗi nhịp” màcuộc đời người nghệ sĩ hát rong nếm trải. Để rồi sau bản hòa tấu đầy cung bậc ấy,hòa quyện lại là nỗi niềm, suy tư, trắc ẩn về những mảnh đời, độc giả cảm thônghơn, yêu thương hơn nhân vật và yêu luôn cả cuộc đời nghệ sĩ Mạc Giọng điệuĐọc truyện của Mạc Can ta thấy giọng văn chân thật, giản dị và bản không học nhiều nhưng với sự khao khát với con chữ, khao khát được viếtđược giãi bày, vì vậy văn ông giản dị đến không ta khen văn Mạc Can đơn giản, dễ hiểu, dễ gần, không có những từđánh đố người đọc, không có sự trau chuốt rắc rối như lối hành văn của những vănsỹ trẻ. Đó là thứ văn chương bình dân, thứ văn chương dành cho số đông. Nó đứngsang một bên, không chung hàng, chung lối với những thứ văn chương chỉ được chichút về giọng điệu, về hình thức… Nó thể hiện sự tôn trọng của người viết vớingười đọc. Nó là cuộc trò chuyện với độc giả, thông qua một trung gian, ấy là Giọng điệu dân dã mộc mạcỞ Tấm ván phóng dao, ấn tượng đầu tiên mà độc giả bắt gặp ở văn phongMạc Can là giọng điệu dân dã, mộc mạc trong những trang văn tả cảnh thiên nhiên,trời mây sóng nước, cảnh sinh hoạt của những con người phiêu linh, trôi nổi trênchiếc ghe đoàn xiếc. Đó là những trang viết về những “cơn mưa lúc nửa đêm” vớinhững tiếng “mưa rơi lộp độp trên mái nhà lồng chợ vắng tanh, sân khấu không ánh 55đèn, không khán giả, buồn ai oán, chung quanh mờ mại gió nước, tiếng ếch nhái ồmộp, một lúc vang vang, một lúc lặng thinh. Tiếng mưa rơi hoài, não nuột suốt canhthâu… trong mưa, từ cõi nào vẳng lại tiếng cầu kinh hoang mang, dàn đồng ca củakiếp côn trùng nơi bùn lầy nước đọng, không khác gì cuộc đời những người hátrong!”[5, Câu văn êm ả như ru, những cơn mưa làm xót xa nỗi lòng củacon người “có trái tim quá lớn” như nhân vật tôi. Những đêm mưa làm cõi lòngthêm thấm lạnh, nhân vật càng thấm thía cái niềm đau và nỗi buồn về kiếp hát rongtrôi nổi. Giọng văn dân dã, mộc mạc, đượm buồn, câu văn có chất thơ, để khi đọcđến đâu, chúng ta như lắng lòng lại, cảm thông sâu sắc cho số phận, kiếp người lênhđênh trên sóng điệu dân dã, mộc mạc này giúp Mạc Can trần thuật một cách dễ dàngvới lời văn gần với văn nói, ở đó có sự mộc mạc, dung dị khi nói về cuộc sống vấtvả mưu sinh. Sự thiếu thốn về vật chất, sự khắc nghiệt của lòng người, của thiênnhiên được trải điệu dân dã, mộc mạc xuất phát từ chính con người nhà văn, cũng nhưcảm quan của chính tác giả về nhân vật của mình. Giọng điệu ấy được thể hiện bằngngôn ngữ nhân vật luôn mang đậm chất Nam Bộ, giàu tính khẩu ngữ “Lẹ tay thìcòn, chậm tay… cũng còn”; “Trời ơi ai mà ác nhơn sát đức vậy không biết”; “Chamẹ sanh con, trời đất sanh tánh”, hay “Tụi nó móc túi người ta chớ nó móc túi ôngđâu mà ông lo chuyện ba láp, nó thù vặt chém lén là mệt nha, nó tiểu nhơn đánh lénsau lưng mình phải sợ chớ”, “ổng đen thui nên đặt ổng tên là ông lô xí sộ”, “Dạ tuité xuống giếng, may mà má tui hay kịp vớt lên, không thì tui chết rồi, rối cái tuibịnh ban cua tóc rụng hết ráo, còn nữa, hồi hai tuổi tui nghe má tui nói lại, tui téxuống sông, chìm lỉm, vớt lên chết luôn mấy ngày… tự nhiên bây giờ tánh tui hơitưng tưng”.Bên cạnh đó nhà văn thể hiện ngôn ngữ đối thoại qua từ ngữ chân chất, mộcmạc gần gũi với ngôn ngữ đời thường “bà Trần lấy làm lạ hỏi chú Bê, bởi chú haynói chuyện với con bà- Chú Bê thằng Ba bị cái gì vậy?Chú Bê cười ruồi 56- Nó bị người khuất mày khuất mặt bắt, tại đêm nào nó cũng đứng sau gòmả!Bà Trần lại hỏi- Trời… trời, nó đứng ở ngoải làm cái gì vậy hỡi trời?” [5, ván phóng dao là lời thủ thỉ tâm tình của tác giả về một số kiếp cơ cựcnghèo hèn. Truyện của ông không ồn ào, gay gắt những mâu thuẫn xung đột, khônglà sự phản kháng mạnh mẽ, không có những tính cách nổi bật mà hấp dẫn bởi tấmlòng yêu thương của tác giả, bởi cách viết khá riêng và độc đáo. Sinh ra và lớn lêntrong cảnh đói khổ, Mạc Can hơn ai hết thấm thía sâu sắc về cuộc sống của nhữngsố phận nghèo khổ, bất hạnh. Giờ đây, qua tác phẩm của Mạc Can chúng tôi dễnhận thấy cuộc sống của những người dân thôn quê, nổi trôi lênh đênh trên sóngnước một cuộc sống lang thang phiêu bạt. Có thể nói, giọng điệu dân dã mộc mạclàm nên chất riêng cho Mạc Can, là “đặc sản” của nhà văn Nam Giọng tâm tình, thủ thỉ, giàu chất thơMỗi tác phẩm, mỗi tác giả có một giọng điệu khác nhau, nhưng nó luônthống nhất trong một khuôn giọng điệu cơ bản và chủ đạo nào đó. Giọng thủ thỉ tâmtình với tư cách là một thủ pháp đã xuất hiện từ trước, và trong các thời kỳ văn học,giọng điệu này luôn được sử dụng và mang sắc thái riêng. Điều đó cho thấy giọngthủ thỉ tâm tình không phải là sản phẩm mới, đặc sản riêng của Mạc Can. Ở đâyMạc Can đã vận dụng những gì sẵn có để biến tấu theo những dụng ý riêng củamình. Giọng điệu thủ thỉ tâm tình hiện diện trong tác phẩm nhưng rất khó nắm thẩm thấu vào tất cả những yếu tố trong tác phẩm. Nó có thể được tạo ra từnhững khoảng trống, từ những điều không được nói tới trong tác phẩm. Vì thực chấtgiọng điệu thủ thỉ tâm tình chỉ có thể lĩnh hội, cảm nhận thông qua chính quá trìnhđọc, cảm nhận từng câu từng chữ, qua lối diễn đạt, ngôn ngữ của những hình ảnh,sự cộng hưởng giao thoa thẩm thấu, xuyên thấm vào nhau của tất cả những yếu tốtrong tác chiếu vào Tấm ván phóng dao, Mạc Can đã thể hiện loại giọng điệu đặcbiệt này. Đây là hệ quả của cách nhìn người, nhìn đời đầy tính nhân văn của Can không thích “nống lên thống thiết” Lại Nguyên Ân mà thích phô bày cái 57nôm na, thật thà đáng yêu, cái thủ thỉ, tâm tình. Chất giọng ấy phù hợp với việcmiêu tả đời sống của người dân nông thôn nghèo, những con người có cuộc sốnggiản dị. Giọng văn Mạc Can trầm, sáng, gần với giọng truyện cổ tích, nhịp vănchậm gọn, như thủ thỉ tâm tình kể cho ta nghe về câu chuyện của cuộc đời. Giọngtâm tình trong Tấm ván phóng dao đậm đặc và thể hiện trên nhiều phương diện. Cảcâu chuyện đều mang giọng điệu đó, bắt đầu bằng cách gọi tên các nhân vật cậuBa, cô Tư, Anh Hai, chú Bê, chú Tài say đầy thân mật, đến các nhân vật trong tácphẩm đều có lai lịch, có nguồn gốc xuất thân, có ngoại hình rõ ràng để từ đó ông thểhiện cái nhìn về cuộc đời số phận của họ. Đây là câu chuyện buồn của một kiếpngười, câu chuyện đã tạo được lực hấp dẫn, lôi độc giả đi theo không ngừng từ đầuđến cuối là do những tình tiết và tâm lý nhân vật đã mật thiết lồng vào nhau trongmột bố cục, một hình thức văn phong phong phú, một giọng điệu tâm tình thu khi chúng ta cứ ngỡ như đang nghe tác giả kể lại cuộc đời mình “Không có gìlàm cho tôi sợ hơn cơn mưa lúc nửa đêm, vì với riêng tôi, nhìn giọt mưa rơi longlanh, nghe tiếng mưa rì rào, tí tách, chẳng khác nào những lời thì thầm bên tai, nhắcnhở lại quá nhiều nỗi buồn, của cuộc đời đã qua”[5, Những cơn mưa như triềnmiên, không dứt vào những tháng ngày mưa bão “Mưa rơi lộp độp trên mái nhàlồng chợ vắng tanh, chợ không người, sân khấu không ánh đèn, không khán giả,buồn ai oán, chung quanh mờ mịt gió nước, tiếng ếch nhái ồm ộp, một lúc vangvang, một lúc lặng thinh”[5, đấy chính là dư vị của “dàn đồng ca của kiếp côntrùng nơi bùn lầy nước đọng”. Theo cảm nhận của riêng “tôi”, những âm thanh nãonùng, ai oán ấy “không khác gì cuộc đời những người hát rong”[5, Âmthanh, không gian của những xóm nghèo vào đêm mưa nghe sao não nùng, thê thiết,dày đặc khắp tác phẩm, tạo nên chất tháng ngày phiêu lưu trên những dòng sông, những bến sông cùngtấm ván phóng dao, có lẽ hơn ai hết nhân vật “tôi” thấm thía nỗi lòng của ngườikiếp sống lênh đênh. Anh Ba càng thấy yêu những dòng sông trôi lững lờ, nhữnggiề lục bình bấp bênh nổi trôi vô định. Dòng sông mà đoàn hát gia đình trôi nổi theonhững ngày tháng mưu sinh, phải chăng đó là dòng đời nghiệt ngã, xô đẩy nhữngcon người sống kiếp long đong, vô định. Sau những tháng ngày lang bạt, phiêubồng trên chiếc ghe, gia đình Anh Ba cập cảng cuộc đời trên mảnh đất hắt hiu nơi 58xóm nghèo, không có một mái nhà, mà phải ở tạm. Xóm nghèo ấy nằm cạnh mộtkhu đất hoang người ta quen gọi với cái tên nghĩa địa. Gia đình ly tán, Anh Ba vàCô Tư sống trong nỗi vật vờ, nửa mê nửa tỉnh của cô em gái không biết mình đangsống hay đã chết. Giọng văn chậm rãi thủ thỉ về nỗi buồn thấm thía của kiếp làmngười “Lúc nào cũng vậy, khi tôi nhắm mắt, ban đầu thường có những đốm sánglập loè, đó là ánh lửa trong chiếc đèn bão, thời thơ ấu của tôi, rồi là chữ chỉ có chữ,tôi khát chữ tới độ điên cuồng, ở kiếp nào đó, ở một thế giới nào đó… tôi là mộtnhà thông thái. Tôi biết quá nhiều điều nhưng rồi tôi đã làm sai một điều gì đó khiếncho tôi bị xoá đi, cả tôi và cả những điều tôi học, giờ đây tôi biến thành kẻ lưu đày utối, trong tiềm thức, tâm linh tôi như sương khói”[5, cách dựng truyện pha trộn giữa thực tại và hồi tưởng khéo léo cùng cáchhành văn nhiều đoạn huyền ảo với giọng điệu thủ thỉ tâm tình đã tạo cho chúng tacái ham muốn không thể nào thoát ra Giọng ngậm ngùi, cảm thươngTrong truyện của Mạc Can, như Tấm ván phóng dao, Công chúa Ôsin, tabắt gặp cái giọng điệu ngậm ngùi, cảm thương. Đó là sự cảm thương đối với cuộcsống la suy ngẫm của nhân vật, hay qua những lời nhận xét trực tiếp,góp phần làm cho nghệ thuật tự sự thêm hấp dẫn, làm cho người đọc truyện dùtrong hoàn cảnh nào cũng không thể dửng Giọng điệu chiêm nghiệm triết lýMạc Can có lối kể phần “khách quan”, “tự nhiên” tránh việc bắt nhân vậtphải gồng mình lên tự phân tích. Ở đây những tình thế đời sống được đưa ra như làđể thể hiện một sự chiêm nghiệm lẽ đời hơn là để phê phán một lối sống nào cho việc lật ra mặt trái của lối sống thông tục theo những thói quen vô thức, ởđây nhà văn càng điềm tĩnh hơn trong khi phát hiện ra những nghịch lý của cuộcđời. Tư tưởng chủ đạo trong tác phẩm của Mạc Can đó là tư tưởng nhân văn, nhânđạo, lấy tình thương, sự nhân ái để cảm hoá con người. So với các tác giả khácchúng tôi có cảm giác như Mạc Can còn vướng quá nhiều duyên nợ với đời, cho học/Tự sự học, Ngôn ngữ học, Văn học...cũng lần lượt ra mắt công chúng với một sốlượng đáng phương Tây có Lý luận tự sự đương đại Recent Theories of Narrative củaWallace Martin 1986, Nhập môn phân tích cấu trúc truyện kể Introduction to theStructural Analysis of Narratives của Roland Barthes 1977, Ngôn ngữ trần thuật –ngôn ngữ trần thuật mới Narrative Discourse – New Narrative Discourse của 1986, Trần thuật học Dẫn luận lý luận tự sự Narratology Introduction to theTheory of Narrative của Mieke Bal 1985, 1997. Kết cấu của thời gian trong tự sự hưcấu La Configuration Du Temps Dans Le Récit De Fiction của Paul Ricoeur1983-1985, Quyền uy của sự hư cấu Fictions ò Authority của Susan S. Lanser1992,Tự sự như là một phương pháp tu từ Narrative as Rhetoric của James Phelan1996, Lý luận tự sự của hậu hiện đại Postmodern Narrative Theory của Mark Currie1998, Tân tự sự học Narratologies do David Herman chủ biên 1999, Hướng dẫn líluận tự sự đương đại A Companion to Narative Theory do James Phelan và Peter chủ biên 2005…Ở Trung Quốc có Tự sự học nghiên cứu do Zhang YinDe tuyển chọn 1989, Dẫnluận tự sự học của Luo Gang 1994, Trung Quốc tự sự học của Yang Yi 1997, Nghiêncứu về trần thuật học và phong cách học tiểu thuyết của Shen Dan 2004, Trần thuậthọc của Dong Xiaoying 2001, Lý luận tự sự và văn hóa thẩm mỹ của TanJunqiang2002, Mỹ học tự sự của Geng Zhanchun 2002, Sự chuyển biến của mô thứctự sự của tiểu thuyết Trung Quốc của Chen Pingyuan 2003, Sơ khảo về mẫu/paradigm của ngôn ngữ tự sự trong tiểu thuyết đương đại của Wu Peixian 2003,Conđường Trung Quốc của Tự sự học do Zu Guosung chủ biên 2007.Ở Việt Nam có Nguyễn Đức Dân với Lôgic và Tiếng Việt 1996, Đặng Anh Đàovới Đổi mới tiểu thuyết phương Tây hiện đại 1995, Nguyễn Thái Hòa với Những vấnđề thi pháp của truyện 2000, Nguyễn Lai với Ngôn ngữ với sáng tạo và tiếp nhận vănhọc 1998, Lê Thị Tuyết Hạnh với cuốn Thời gian nghệ thuật trong cấu trúc văn bản tựsự qua các truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975-19952003, Nguyễn Thị Thu Thủyvới Luận án Tiến sĩ Ngữ văn về đề tài Ngôn ngữ kể chuyện trong truyện ngắn Việt Namsau 1975 điểm nhìn và ngôn ngữ kể chuyện 2003, Lê Thời Tân với bài Tự sự họctên gọi, lược sử và một số vấn đề lí thuyết, Thái Phan Vàng Anh với Ngôn ngữ trầnthuật trong truyện ngắn Việt Nam đương đại, Cao Kim Lan với Người kể chuyện và mốiquan hệ giữa người kể chuyện với tác giả, vân vân, là những công trình đã nghiên cứungôn ngữ kể chuyện, điểm nhìn cũng như thời gian từ khía cạnh ngôn ngữ học và vănhọc. Trong cuốn Tự sự học, một số vấn đề lí luận và lịch sử do Trần Đình Sử chủ biên2004, đã tập hợp được rất nhiều bài viết của các nhà phê bình có liên quan đến lĩnhvực điểm nhìn và ngôn ngữ kể chuyện trong văn xuôi nghệ thuật. Dưới đây, xin điểm qua nội dung chính của một số công trình được nêu ở trên, đểsẽ góp phần làm rõ khái niệm Ngôn ngữ trần Ngôn ngữ trần thuật – ngôn ngữ trần thuật mới Narrative Discourse – NewNarrative Discourse của G. đã vận dụng lý thuyết Trần thuật học để khảo sát và bàn luận về bộ tiểuthuyết nổi tiếng Đi tìm thời gian đã mất của nhà văn trứ danh Pháp Marcel dẫn luận của Ngôn ngữ trần thuật, Genette đã khu biệt ba hàm nghĩa của tự sự larecit, định nghĩa ba khái niệm truyện, tự sự và trần thuật. Đồng thời, Genette cũngvận dụng cả lý thuyết ngôn ngữ học của Ferdinand de Saussure để giải thích truyện kể,tự sự và trần thuật. Trong đó, “cái được biểu đạt” hoặc nội dung trần thuật tức truyệnkể - thường chỉ những sự kiện/sự tình hoặc chân thực hoặc hư cấu; “cái biểu đạt”, trìnhbày, lời nói hoặc văn bản trần thuật là tự sự theo nghĩa gốc - chỉ những chuỗi lời nóihoặc văn bản kể về những sự kiện/sự tình đó; còn tất cả những hành động kể/trần thuậtmang tính sáng chế sản xuất ra những văn bản có nội dung truyện kể và kể cả nhữngtình cảnh thực hay hư ảo mà hành động trần thuật xảy ra trong đó đều là trần thuật. [71,tr. 7]Một hàm nghĩa nổi bật nhất, quan trọng nhất và cũng được chú ý nhiều nhất củatự sự là nó đảm nhiệm bằng miệng hoặc chữ viết công việc trình bày về một hay mộtchuỗi sự kiện/sự tình. Rõ ràng với nghĩa như thế tự sự là chỉ hành động trần thuật. Vậykhông có hành động trần thuật thì không có trần thuật, có khi thậm chí không có nộidung trần thuật. [71, tr. 6] Có hành động trần thuật thì phải có chủ thể trần thuật. Genettequan niệm rằng, không thể có những tự sự không có người trần thuật. Nếu không cóngười trần thuật, tự sự sẽ không thể được thực hiện, và đó sẽ là một hành động vô trầnthuật, vì thế cho nên nó dứt khoát là một trần thuật không có hành động giao tiếp [71, trong cuốn sách này, Genette chia khái niệm tự sự theo nghĩa rộng ra baphạm trù Thời gian quan hệ thể hiện thời gian truyện kể và thời gian ngôn ngữ/lời nói;Ngữ thể phương thức cảm nhận truyện kể của người trần thuật, gồm vấn để “điểmnhìn” và Ngữ thức các loại hình lời nói được người trần thuật sử dụng, tập trung thểhiện vấn đề “khoảng cách” và ngôi [71, tr. 9]. Đó sẽ là những luận cứ quan trọng củaluận án chúng kể về một sự kiện/sự tình, người ta có thể kể ít hay nhiều tùy từng trường hợpvà ý mình, cũng có thể kể từ khía cạnh này nọ tùy theo sự cần thiết của mình. Phạm trùngữ thức của trần thuật chính đề cập đến khả năng trên. Nói một cách chính xác và cụthể hơn, những thông tin được kể lại, thường khác về trình độ được thể hiện, có thểđược thể hiện trực tiếp hay gián tiếp, nhiều hay ít, từ khía cạnh này hay khía cạnh nọ,được người tiếp nhận từ vị trí như thế nào những chi tiết thông tin đó, đều có thể điều tiết bằng các loại hình lời nói của người trần thuật, trong đó, có các kiểu thoại dẫn. [71, Thoại dẫn reported speech là lời người khác hoặc lời dẫn từ sách vở khácđược đưa vào lời nói hoặc bài viết của người nói/người viết. Thoại dẫn trực tiếp, thoạidẫn gián tiếp, thoại dẫn tự do gián tiếp vân vân là những hình thức ngôn ngữ khác nhaunhằm cùng diễn đạt một nội dung. Đặc trưng của các hình thức thoại dẫn cụ thể đượcthể hiện bằng sự biến đổi về nhân xưng, thời gian, từ ngữ, loại hình câu và dấu đổi phương thức ngôn ngữ của người trần thuật cũng như nhân vật trong văn bảntrần thuật thường được làm thay đổi luôn phong cách, đồng thời, điểm nhìn và khoảngcách trần thuật cũng được điều tiết và hạn chế hữu hiệu. Trong văn bản trần thuật, thoạidẫn là lời nhân vật được đưa vào lời của người trần thuật. [42, tr. 132 ] Trần thuật học Dẫn luận lý luận tự sự của Mieke Bal là một công trìnhquan trọng về lí luận Trần thuật học, tập trung giới thiệu các thành phần/yếu tố elementschủ yếu về lí luận tổng hợp của văn bản trần thuật/tự sự từ các khía cạnh văn bản text,câu chuyện story và tài liệu fabula, giải thích lí thuyết cơ bản đề cập đến các yếu tốvề lí luận tự sự như sự kiện event, người hành động actors, thời gian time, địa điểmplace, tiêu điểm trần thuật narrative focalization, người trần thuật/người kể chuyệnnarrative subject vân Bal, văn bản text là một chỉnh thể có giới hạn và cấu trúc nhất định tổ hợpbởi những ký hiệu ngôn ngữ. Ngôn ngữ trần thuật nghiên cứu quan hệ giữa trạng tháithời gian và sự kiện trong các mô thức ngôn ngữ của văn bản tự sự, tập trung vào cácmối quan hệ có thể giữa truyện kể và văn bản tự sự, quá trình trần thuật và văn bản trầnthuật/tự sự, truyện kể và quá trình tự sự. Nó không quan tâm đến bản thân truyện kể vàcũng không đề cập đến việc xây dựng truyện kể hoặc tình tiết. Cụ thể hơn, Ngôn ngữtrần thuật chỉ khảo sát những vấn đề như hình thái thời gian, hình thức ngôn ngữ tứcloại hình ngôn ngữ mà người trần thuật đã sử dụng, quan điểm của Genette và hình tháingôn ngữ tức phương thức cảm nhận truyện kể của người trần thuật, quan điểm củaGenette [73, tr. 2]. Lý luận tự sự hậu hiện đại của Mark Currie tập trung thảo luận những đổithay của hậu hiện đại và giải cấu mang tính chất triệt để về các yếu tố lí luận tự sự như“khách thể tự sự”, “thời gian và không gian tự sự”, “chủ thể tự sự” vân vân trong Tựsự học truyền thống hay còn gọi là Tự sự học kinh điển. Tư tưởng của tác giả đã tiếpnhận và thể hiện những trào lưu tư tưởng hiện đại của các đại gia, trong đó, có Chủnghĩa giải cấu của Derrida, Hình thái ý thức của Althusser, Chủ nghĩa Hậu hiện đại củaTriết gia Pháp Jean-Francois Lyotard, Chủ nghĩa Tân lịch sử của Nhà tư tưởng PhápMichel foucault, xây dựng lại lí luận tự sự. Hai chủ đề quan trọng được thể hiện trongcuốn sách là quan hệ giữa tự sự với thân phận, vai trò của thời gian trong việc trầnthuật đã đi suốt cả tác phẩm. Chung quanh hai chủ đề đó, những vấn đề “tiểu thuyết”, “phê bình” và “ý thức hệ” đã được liên kết với nhau. Tự sự, thân phận, thời gian và ýthức hệ là những cái được các nhà nghiên cứu hậu hiện đại chú tâm trong nghiên cứuvăn học cũng như nghiên cứu văn hóa hiện Nghiên cứu về trần thuật học và phong cách học tiểu thuyết của Thân Đanlà một cuốn sách có những nghiên cứu độc đáo và toàn diện kết hợp cả Trần thuật họcvà Phong cách học tiểu thuyết. Ngoài đánh giá và phân tích một cách sâu sắc và toàndiện những lí thuyết cơ bản của Trần thuật học và Phong cách học tiểu thuyết, tác giả đãdành cả ba chương tập trung nghiên cứu và đánh giá những mảng trùng khớp của Trầnthuật học và Phong cách học tiểu thuyết từ các khía cạnh như “diễn ngôn trong Trầnthuật học” với “văn bản trong Phong cách học tiểu thuyết”, “phân loại, tính chất và vaitrò của các loại góc độ trần thuật khác nhau”, “các loại hình thức diễn đạt khác nhauvà vai trò của lời nói nhân vật” , bổ sung và làm rõ hơn những vấn đề trước đây tuy đãcó nhiều nhà nghiên cứu đề cập và tìm hiểu nhưng vẫn còn nhiều thiếu sót và mơ hồnhư các khái niệm trần thuật, điểm nhìn, ngôi... dựa trên cơ sở phân tích văn bản vănhọc nổi tiếng trên thế Trong cuốn Trần thuật học của Đổng Tiểu Anh, Trần thuật học được tác giảquan niệm là nghiên cứu làm thế nào để diễn đạt quan điểm, ý thức, tư tưởng bằng cáchình thức nghệ thuật tức các phương thức của trần thuật của văn bản. [58, tr. 43] Tácgiả đã khảo sát tất cả mọi hình thức trần thuật được thể hiện trên các văn bản trong dòngchảy lịch sử. Đồng thời, từ khía cạnh hiểu biết về ngôn ngữ của loài người, từ quan hệgiữa tư duy con người với kí hiệu ngôn ngữ, tìm hiểu tác động của phương thức tư duyđối với phương thức diễn đạt, và quan hệ suy lí lôgíc trong việc lí giải, rút ra quy luật tựthân mà ngôn ngữ văn học diễn đạt. Tác giả không phải chỉ đơn thuần bàn về quan hệgiữa Ngôn ngữ trần thuật và văn bản, mà còn đi từ khía cạnh lí tính và tư duy con người,kết hợp với những biểu hiện của văn bản để trình bày quan điểm của mình. Do tư duycon người muôn hình muôn vẻ, phương thức trần thuật cũng bởi thế mà trở nên huyềnbí. Và qua phương thức trần thuật đó, cái ý nghĩa hoặc cái tôn chỉ cuối cùng của văn bảnđược phơi trần ra trước mắt mọi người dưới sự phận tích từng bước một, từng cái mộtnhư của phân tâm Trong cuốn Lý luận tự sự và văn hóa thẩm mỹ, ông Đàm Quân Cường cũngtập trung quan tâm đến nội bộ của văn bản tự sự. Ông cho rằng, lí luận trần thuật hoặc tựsự là thông qua những tác phẩm tự sự cụ thể, tức những cái gọi là “lời nói” parole,“diễn ngôn” discours, “kết cấu bên ngoài” surface structure, tìm ra yếu tố cấu thànhcủa lời nói, diễn ngôn và kết cấu bên ngoài, để rồi tìm hiểu cơ chế cấu tạo cụ thể củachúng. Quá trình này cũng nhằm tìm hiểu cái khả năng hình thành ngữ pháp tự sự hay là“ngôn ngữ trần thuật”. Đối tượng nghiên cứu của lý luận tự sự là các văn bản text tựsự. Trong các tác phẩm tự sự, văn bản tự sự text xuất hiện dưới hình thức “văn bản trần thuật” hoặc “ngôn ngữ tự sự”, trọng tâm của văn bản tự sự text là người trần thuật trầnthuật trong văn bản, kể về văn bản có một truyện kể nhất Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu cũng có nhiều công trình nghiên cứu công trình nghiên cứu Những vấn đề thi pháp của truyện, Giáo sư NguyễnThái Hòa đã khảo sát và nghiên cứu những yếu tố quan trọng trong truyện là "lời kể" và"lời thoại", "không gian", "thời gian" và "giọng" vân vân từ nhiều khía cạnh, góc độkhác nhau. Khi định nghĩa cho Truyện, ông cho rằng, Truyện khác với các văn bản khácở chỗ các sự kiện trong Truyện diễn ra "trong sự sắp xếp, sự lựa chọn thời gian củangười kể", [28, tr. 192] "Truyện là văn bản chiếu vật diễn tiến trong thời gian tự nó màngười kể đã chọn cho nó." [28, tr. 193] Quan điểm của ông cho thấy thời gian là mộtyếu tố không thể thiếu của truyện, nó không phải là thời gian tự nhiên trong vũ trụ, mà làthời gian đã được sắp xếp lại theo ý đồ của người kể, mang tính chủ nghiên cứu về thời gian trong truyện, chị Lê Thị Tuyết Hạnh đã khẳng địnhvai trò quan trọng của thời gian trong các yếu tố cấu trúc lên một văn bản tự sự văn công trình Thời gian nghệ thuật trong cấu trúc văn bản tự sự qua các truyệnngắn Việt Nam giai đoạn 1975-1995, chị Hạnh đã đi sâu khảo sát quan hệ giữa thờigian với sự kiện cũng như thời gian với tâm lý nhân vật, xét dưới góc độ truyện. Thờigian được xem xét như là một trung tâm trong việc tổ chức một tác phẩm văn học. Tácgiả quan niệm rằng, thời gian có "chức năng như một thủ pháp, một tín hiệu, có giá trịnghệ thuật riêng", [18, tr. 191] nó phối hợp với những yếu tố khác trong một hệ thốngvăn bản tự sự văn học như điểm nhìn, giọng kể ... để thể hiện tính liên tục và tính lôgíccủa sự kiện lịch sử hay tính ước lệ, phi thời của tâm trạng tâm lý nhân vật. Bởi thế, hìnhthức thời gian trong truyện cũng trở nên "phong phú, đa dạng, biến hóa của các kiểuloại", giữa các hình thức đó, có sự xâm nhập và giao thoa nhất viết Điểm nhìn trong lời nói giao tiếp và điểm nhìn nghệ thuật trong truyện củaNguyễn Thái Hòa phân biệt điểm nhìn trong văn bản tự sự với điểm nhìn của lời nóitrong giao tiếp thường ngày. Tác giả cho rằng hai điểm nhìn đó có nét giống nhau nhưngvề cơ bản, chúng khác nhau về chức năng và cấu trúc. Theo tác giả, "Điểm nhìn nghệthuật, là điểm xuất phát của một cấu trúc nghệ thuật, ... là một cấu trúc tiềm ẩn đượcngười đọc tiếp nhận bằng thao tác suy ý từ các mối quan hệ phức hợp giữa người kể vàvăn bản, giữa văn bản và người đọc văn bản, giữa người kể và người đọc hàm ẩn." [27,tr. 96]Dựa trên cơ sở lí thuyết hội thoại và lí thuyết điểm nhìn, trong bài Về khái niệm"truyện kể ở ngôi thứ bá ba" và "người kể chuyện ở ngôi thứ ba", Nguyễn Thị ThuThủy đã làm sáng tỏ sự khác biệt về khái niệm "truyện kể ở ngôi thứ ba" và "người kểchuyện ở ngôi thứ ba", và cho rằng, nên gọi một cách chính xác hơn "truyện kể ở ngôi thứ ba" một là "Truyện kể có NKC hàm ẩn kể theo điểm nhìn nhân vật", hai là "Truyệnkể có NKC hàm ẩn kể theo điểm nhìn của mình". [39, tr. 145] Luận án Tiến sĩ ngôn ngữhọc với đề tài Ngôn ngữ kể chuyện trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 điểm nhìn vàngôn ngữ kể chuyện của chị Thủy cũng khảo sát và nghiên cứu về điểm nhìn và tìmhiểu quan hệ điểm nhìn với các phương thức kể công trình về Trần thuật hay Ngôn ngữ trần thuật được điểm qua trên đây chỉlà một phần của những tác phẩm hoặc tập trung nghiên cứu hoặc chỉ ít nhiều đề cập đếnngôn ngữ trần thuật, còn chưa kể đến những bài báo đã được công bố của nhiều nhànghiên cứu làm rõ và xác định khái niệm Ngôn ngữ trần thuật, luận án trình bày các nộidung sau đây01. Quan niệm về Trần thuật và Ngôn ngữ trần thuật02. Quan niệm về Người trần thuật03. Quan niệm về Điểm nhìn04. Quan niệm về Thời Quan niệm về "trần thuật" và "ngôn ngữ trần thuật"Genette cho rằng tất cả những hành động trần thuật mang tính sáng chế sản xuất ranhững văn bản có nội dung truyện kể và kể cả những tình cảnh thực hay hư ảo mà hànhđộng trần thuật xảy ra trong ấy đều là trần thuật. Trần thuật là một kết cấu đẳng lập chỉhành động kể, nó liên quan mật thiết đến Người kể chuyện/người trần thuật, thuộc về kỹxảo trần thuật/kể chuyện trên bậc diễn ngôn discourse trong văn bản văn ngữ đã cấu trúc lên phương thức trần thuật. Đối với một bộ tiểu thuyết, cáiquan trọng là nó được viết như thế nào, bằng một hệ thống ngôn từ gì và hình thức câunhư thế nào để làm cho câu chuyện/sự kiện xảy ra trước mắt người đọc. Tất cả nhữngthứ trên có liên quan đến cấu tạo nội bộ trên bình diện ngôn ngữ của tác phẩm vănhọc/văn bản tự sự được tổng hợp lại trong một khái niệm Ngôn ngữ trần Quan niệm theo hướng ngôn ngữ học - lý thuyết hành động ngôn từNhững người mở đầu cho lý thuyết hành động ngôn từ là Austin với cuốn Howto do things và Searle với cuốn Speech lý thuyết này, "một lời nói bao giờ cũng phải được thực hiện thông qua cáchành động ngôn từ hành động nói gồm ba hành động liên quan đến nhau. Đó là hànhđộng tạo ngôn, hành động ngôn trung và hành động dụng ngôn". [34, Mỗihành động ngôn từ trên có một tác dụng riêng và cụ thể cho mọi hoạt động lời Hành động tạo ngôn locutionary act là hành động nói tạo ra lời nói mang mộtlượng thông tin nhất định và truyền thông tin đó cho người ta Hành động ngôn trung illocutionary act là hành động nói nhằm thực hiện mụcđích giao tiếp nhất định của lời nói đích ngôn trung như trần thuật, cầu khiến, hỏi bằng lực thông báo của một phát ngôn lực ngôn trung.- Hành động dụng ngôn perlocutionary act là hành động nói nhằm đạt đượchoặc gây hiệu quả nhất định đến tâm lý người nghe thông qua lời ba loại hành động trên, lý thuyết hành động ngôn từ quan tâm nhiều đếnhành động ngôn trung vì nó có thể thay đổi tư cách pháp nhân của người đối thoại [34, bộc lộ tính cách của người phát động ngôn trung nằm ngay trong lời nói và được nhận diện bằng dấu hiệungôn ngữ ở mặt hình thức hoặc ở mặt ý nghĩa. [34, Căn cứ theo đích ngôn trung,các hành động ngôn trung khái quát là trần thuật được phân chia thành các kiểu hànhđộng ngôn từ cụ thể hơn là trình bày, đánh giá... được phân biệt với các kiểu cầu khiến,hỏi. Trong đó, hành động trần thuật thuộc kiểu hành động trình bày. Ngôn ngữ trầnthuật là hình thức biểu hiện của hành động ngôn từ trần bản trần thuật có thể được coi như là một câu trần thuật được mở rộng nhằmkể lại các sự kiện cho người tiếp nhận trần thuật biết, đồng cảm và nhận xét cùng trình tạo dựng một văn bản trần thuật của người trần thuật cũng là một hành độngngôn từ, cụ thể là hành động tạo tích ngôn ngữ trần thuật trong các văn bản tự sự tương đương với việc phântích hành động ngôn trung, tức người trần thuật làm thế nào và bằng hình thức gì đểphản ánh thực tại của một sự kiện và đồng thời, làm cho hành động ngôn từ của ngườitrần thuật mang lại hiệu lực, hiệu quả nhất động ngôn trung tức mục đích trần thuật của người trần thuật thường nằmtrong diện ngôn ngữ và được nhận diện bằng các ký hiệu ngôn ngữ, đó là những hìnhthức biểu hiện của ngôn ngữ người trần thuật gồm các từ ngữ chỉ nhân xưng và ngôi,các từ ngữ và ngữ đoạn biểu thị nghĩa thời gian...Qua các dấu hiệu ngôn ngữ được thể hiện bằng hành động ngôn từ, người ta cóthể nhận diện tính cách, tâm lý của người phát ngôn và do vậy, hành động trần thuậtđược phân tích một cách khách quan, khoa học hơn mà được giảm tính tư biện, chủquan. Vì vậy, việc phân tích tâm lý, tính cách nhân vật từ góc độ ngôn ngữ sẽ có tínhkhách quan, khoa học, giảm thiểu được tính tư biện, chủ Các quan niệm theo hướng văn Một số quan niệm về "trần thuật"Muốn làm rõ khái niệm Ngôn ngữ trần thuật, trước tiên phải xác định trần thuật làgì. Theo quan niệm của ông Đàm Quân Cường, “trần thuật” là một quá trình giao lưumà nội dung trần thuật với tư cách là thông tin được người phát ra thông tin addressertruyền đến cho người tiếp nhận thông tin addressee [65, Không phải hễ ai đó mởmiệng ra thì là “trần thuật”, trần thuật với nghĩa đen của nó là phải có sự kiện để thôngbáo, sự kiện đó có thể tồn tại thực sự trong thế giới thực tại lẫn hư cấu. Xác định một diễn ngôn/cú đoạn có phải đang tự sự, có thể xét dưới góc độ diễn ngôn đó được triểnkhai mở rộng từng bước một thành một câu chuyện hoặc lớn hoặc nhỏ, thậm chí là mộttác phẩm tự sự. Trần thuật có thể kể về sự kiện, sự tình chân thực, cũng có thể kể về sựtình hư luận tự sự nghiên cứu về cái quá trình trần thuật xuất hiện trong văn bản trầnthuật narrative text hay tác phẩm hư cấu narrative fiction [65, tr. 11]. Văn bản trầnthuật là văn bản mà người phát ngôn của việc trần thuật trình bày hay “kể” về chuyệnkể bằng một phương tiện trung gian như ngôn ngữ, hình ảnh, âm thanh, nghệ thuậtkiến trúc, hay bằng một thể phương tiện trung gian hỗn hợp. Vì thế, “văn bản” khôngphải cũng không thể đồng nhất với “chuyện kể”. Chuyện kể được mã hóa bằng nhữngký hiệu ngôn ngữ và qua đó được cấu trúc và đưa vào văn bản bằng hành động “kể”.Chính hành động“kể” trần thuật đó sản sinh ra những ký hiệu ngôn ngữ và dẫn dắt chora mắt “người trần thuật”.Trọng tâm của trần thuật là một quá trình tương ứng trong nội bộ một tác phẩm tựsự, một quá trình giao lưu và truyền đạt nội dung trần thuật từ một người kể chuyện hưcấu đến một người tiếp nhận trần thuật hoặc hư cấu hoặc tiềm ẩn. Vai trần thuật có thểxuất hiện dưới những trạng thái khác nhau căn cứ theo vị trí trong quá trình trần thuật,trình độ tham gia vào câu chuyện. Việc trần thuật được thể hiện qua một người trầnthuật như thế cũng nhất định phải được sàng lọc qua một điểm nhìn nhất định. Nội dungtrần thuật vậy cũng không thể nào nhất trí với trạng thái vốn có khi nó diễn ra, mà đượctrình diễn sau khi đã cấu trúc lại. Văn bản là trạng thái cuối cùng của những tổ hợp bản là một chỉnh thể có giới hạn và được tổ hợp lại bởi các ký hiệu ngôn ngữ hoặcmôi giới, tức ngôn ngữ discourse miêu tả về những câu chuyện đó bằng lối nói hoặcviết. [65, tr. 12] Nếu ngôn ngữ ở đây được lý giải là sự diễn đạt và cấp bậc trần thuật củavăn bản trần thuật thì câu truyện kể thuộc về đối tượng trần thuật hoặc cấp bậc được trầnthuật. [65, tr. 12]Trong quá trình giao lưu của văn bản trần thuật, có thể phân chia ra các cấp bậckhác nhau, nhưng vấn đề là nguyên tắrần thuật sử dụng trong văn bản tự sựđược chia làm 3 hình thức cơ bản một là ngôn ngữ/lời nói trực tiếp, là những ngônngữ/lời nói mà người trần thuật kể ra; hai là ngôn ngữ/lời nói gián tiếp, là ngôn ngữ/lờinói mà người trần thuật kể gián tiếp thông qua ngôn ngữ/lời nói của nhân vật trong hoặcngoài câu chuyện; ba là ngôn ngữ/lời nói chuyển đổi, người trần thuật kể trực tiếp lời nóicủa nhân cho rằng, Ngôn ngữ trần thuật chủ yếu là nghiên cứu các mối quan hệgiữa tự sự narrative và chuyện kể, tự sự và trần thuật, chuyện kể và trần thuật. Ôngđưa ra ba phạm trù của tự sựtheo nghĩa hẹp là thời gian, ngữ thể và ngữ như Genette, khi phân tích và trình bày khái niệm Ngôn ngữ trần thuật,Đàm Quân Cường vận dụng hệ thống lý thuyết Ngôn ngữ học của Saussure về ngônngữ và lời nói để miêu tả và thuyết minh cho cái đối tượng nghiên cứu của mình. Theoông Đàm, sự khu biệt về ngôn ngữ và lời nói của Saussure có thể hình dung hai bìnhdiện nghiên cứu khác nhau của lý luận tự sự. Một là hệ thống được tạo lập bởi tất cả các tác phẩm tự sự và có vai trò hạn định cho những tác phẩm tự sự đó tức ngôn ngữ củaSaussure. Một là sự thể hiện của hệ thống đó trong khuôn khổ của một tác phẩm tự sựnhất định tức lời nói của Saussure.Diễn ngôn discours histoire của Todorov chỉnhững tổ hợp và cấu trúc nghệ thuật được nhập vào câu chuyện khi kể truyện. Những tổhợp và cấu trúc như thế được tiến hành nhờ những biện pháp như điểm nhìn, các kiểuthời gian vân vân. [65, tr. 5] Bởi vậy, ông Đàm Quân Cường khái quát rằng“Văn bản” tức “ngôn ngữ”, là một hệ thống có cấu trúc khuôn khổ nhất định,trong đó các sự tình được tổ hợp lại bởi một kí hiệu ngôn ngữ ngôn ngữ tự nhiên hoặcnhững kí hiệu khác. Cùng với cấu trúc tự sự, Ngôn ngữ trần thuật nghiên cứu trình tựthời gian và sự tình dưới hình thức thể hiện của ngôn ngữ, tập trung vào các mối quanhệ có thể có giữa chuyện kể và văn bản, quá trình trần thuật và văn bản, chuyện kể vàquá trình trần thuật. Mấy thuật ngữ như trần thuật và người trần thuật, tiêu điểmhóa-người tiêu điểm hóa và nhân tố tiêu điểm hóa vân vân thể hiện nổi bật đặc tính củaNgôn ngữ trần thuật. Nhìn chung, quan điểm của ông Đàm Quân Cường có phần trùngkhớp với quan điểm của Genette. Cho nên, quan điểm trên đây của họ sẽ là cái cơ sởchính mà chúng tôi căn cứ vào đó để triển khai phân tích. Nó đã hàm chứa tối đa nhữngyếu tố liên quan của Ngôn ngữ trần Tiểu Anh giải thích Ngôn ngữ trần thuật như sau trần thuật được cấu tạobởi 3 phạm trù là người trần thuật, phương thức trần thuật và ngữ thái, ngữ thức, cấutrúc do trần thuật sản xuất ra. Chị ấy nhất trí với Genette ở chỗ Ngôn ngữ trần thuật nằmtrong ba phạm trù thời, thái, thức của Genette. Nhưng yếu tố được bao hàm trong baphạm trù đó thì khác ông Genette+ Thái là chủ thể trần thuật gồm ngôi, người trần thuật, người tiếp nhận trầnthuật, tiêu điểm hóa, vân vân;Ngữ thái trần thuật nghiên cứu về vấn đề “ai đang nói”, tức quan hệ giữa ngườitrần thuật và việc trần thuật. Nó gồm quan hệ giữa người trần thuật với điểm nhìn củanhân vật và nhân xưng; quan hệ giữa hình tượng nhân vật được hình thành do việc trầnthuật với thái độ của hình tượng này đối với sự kiện; quan hệ về thái độ của tác giả làkhẳng định hay phủ định đối với nhân vật cũng như sự kiện. [58, tr. 16]+ Thức gồm trình tự, khoảng cách, tần số, dạng thức câu vân thức trần thuật nghiên cứu về vấn đề “nói như thế nào”, tức quan hệ giữaviệc trần thuật và sự kiện, bao gồm những nội dung sau đây1. Sự kiện này diễn ra trong một biên độ thời gian và không gian như thế nào;2. Lần diễn ra của sự kiện, tức tần số trần thuật;3. Sự kiện này là hiện hữu hay hư cấu;4. Những hình thức ngôn ngữ khác nhau để miêu tả, đánh giá vân vân. về sự kiệnđó, tạo thành mô thức trần thuật. Ngoài ra, trần thuật có thể dẫn đến các phương hướng suy lý do sự hiểu biết và cái được trần thuật có khác, và cũng bởi thế mà có nhữngphong cách văn bản khác nhau. [58, tr. 16]+ Cấu trúc của văn bản là cái tổng hợp của các phương thức trần trúc trần thuật chỉ quan hệ giữa việc trần thuật và cấu trúc của văn bản. Cấutrúc văn bản không những chỉ cấu trúc ngoại tại của văn bản, mà còn chỉ cấu trúc nội tại,đó là những yếu tố trần thuật đã phát huy vai trò trong quá trình trần thuật, nhữngphương thức tư duy đã tham gia vào và làm thay đổi phong cách văn Đổng Tiểu Anh cũng cho rằng, phương thức tổ hợp của ngôn ngữ trần thuật làmột hình thức thể hiện thái độ trần độ trần thuật được thể hiện bằng cách lựachọn từ ngữ, việc chọn từ trở thành một biện pháp quan trọng để thể hiện thái độ của tácgiả. [58, tr. 101-102]Thân Đan trực tiếp định nghĩa Ngôn ngữ trần thuật như thếNgôn ngữ trần thuật là thứ ngôn ngữ dùng kể lại câu chuyện bằng lời nói hoặc vănviết, trong văn học, tức là văn bản mà độc giả sẽ tiếp cận. Nó gồm những bộ phậnkhông thể chia tách nhân xưng trong ngôn ngữ là tiêu chí để phán đoán người trần thuậtlà ngôi thứ nhất hay ngôi thứ ba; thời thái trong ngôn ngữ là tiêu chí để phán đoán quanhệ thời gian giữa người trần thuật với chuyện kể ...; diễn ngôn còn thể hiện ai là ngườitrần thuật, có mấy bậc trần thuật và quan hệ như thế nào, vân vân. Ngoài ra, Thân Đanđã xem xét vấn đề Ngôn ngữ trần thuật bằng lý thuyết văn bản học. Nếu xuất phát từkhía cạnh phân tích văn bản, trong một hệ thống văn bản tự sự, có những cấp bậc khácnhau và tương quan với nhau như cơ tầng đặc trưng ngôn ngữ, hiệu quả tâm lý do cơtầng ngôn ngữ đó gây nên, ý nghĩa chủ đề hoặc hiệu quả mỹ học được thể hiện bởi đặctrưng ngôn ngữ của một ngữ cảnh nhất định mà cầu nối của chúng là hiệu quả tâm xuất phát từ khía cạnh Trần thuật học, một hệ thống văn bản tự sự được tạo dựngbởi các cấp bậc như cấp bậc câu chuyện và cấp bậc trần thuật, tức các hình thức ngônngữ nhằm xâu chuỗi lên một văn bản tự sự. Trên cấp bậc trần thuật, lại bao hàm các yếutố như người trần thuật, điểm nhìn, thời gian vân Định nghĩa của "ngôn ngữ trần thuật"Tổng quan các quan điểm về Ngôn ngữ trần thuật được nêu ở trên, điều cần lưu ýnhất là Ngôn ngữ trần thuật chỉ được để cập một cách rải rác, rời rạc, trực tiếp hoặc giántiếp, qua nhiều yếu tố, từ nhiều khía cạnh, bằng nhiều thuật ngữ khác nhau. Vậy, có thểnói, Ngôn ngữ trần thuật là một tập hợp thể của những yếu tố liên quan. Dù thế nào đinữa, các nhà nghiên cứu đã tập trung, đi thẳng cũng như đi sâu vào vấn đề "ai kể - kể cáigì - kể như thế nào" những yếu tố chủ chốt xâu chuỗi nên một văn bản tự sự dưới hìnhthức ngôn đề tài nghiên cứu này, đối tượng nghiên cứu của chúng tôi một là nằm trongdiện cơ tầng đặc trưng ngôn ngữ, hai là nằm trong diện cấp bậc trần thuật. Hai thứ đó có Từ sau 1986, sự đổi mới tư duy nghệ thuật, sự mở rộng phạm trù thẩm mĩ trong văn học khiến truyện ngắn không những đa dạng về đề tài, phong phú về nội dung mà còn có nhiều thể nghiệm, cách tân về thi pháp. Mỗi nhà văn đều lí giải cuộc sống từ một góc nhìn riêng, với những cách xử lí ngôn ngữ riêng. Hệ quả tất yếu là truyện ngắn Việt đương đại đã gặt hái được nhiều thành công trên nhiều phương diện, trong đó không thể không kể đến ngôn ngữ trần thuật. Trong tác phẩm tự sự, trần thuật là thành phần lời của tác giả, của người trần thuật…1. Ngôn ngữ trần thuật do vậy là nơi bộc lộ rõ ý thức sử dụng ngôn ngữ có chủ ý của nhà văn. Khảo sát ngôn ngữ trần thuật đặc biệt là những tính chất thường gặp của ngôn ngữ truyện ngắn hiện đại trong lời người trần thuật chúng tôi hi vọng sẽ góp phần nhận diện những đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ truyện ngắn đương đại. 1. Tính chất hiện đại trong ngôn ngữ trần thuật Thu hẹp khoảng cách giữa truyện kể và những “chuyện” của hiện thực, ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn đương đại trở nên gần với ngôn ngữ đời sống hơn bao giờ hết. Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn không còn là lời nói quyền uy, cao đạo. Bên cạnh khẩu ngữ trong truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh có thứ ngôn ngữ vỉa hè ở tác phẩm Phạm Thị Hoài. Có lời người trần thuật dân dã trong truyện ngắn Sương Nguyệt Minh đi năm lần bảy lượt, mời mẻ bát gẫy đũa…, Nguyễn Khải cười thắt ruột, ăn nói quá quân trộm cướp…, Bão Vũ nằm co tiểu sànhkhihết phim.... Có kiểu phát ngôn trần trụi, không gọt dũa của thứ ngôn ngữ “chợ búa” ở Người hùng trường làng Tạ Nguyên Thọ, Không có vua Nguyễn Huy Thiệp, Dạo đó thời chiến tranh Lê Minh Khuê… Trong một số tác phẩm, những tiếng lóng, những từ ngữ tục, những câu chửi thề… được người trần thuật sử dụng khá thường xuyên. Tuy thế, việc vận dụng thích hợp mảng ngôn từ ít có giá trị thẩm mĩ tự thân này, trong một chừng mực nhất định, vẫn có thể nâng cao hiệu quả trần thuật. Nếu trước đây thật khó hình dung cách nói không có trật tự trên dưới của những người tham gia giao tiếp, thì trong truyện ngắn đương đại, kiểu nói “xấc xược” của lớp trẻ không còn quá lạ tai. Để phê phán một mảng xã hội bộn bề, mọi chuẩn mực đạo đức bị đảo lộn, nhiều cây bút đã không ngại sử dụng thứ ngôn ngữ trần thuật “thiếu văn hóa”. Ở Làng xi măng Lê Minh Khuê, giả sử không có lời chú thích của người trần thuật, hẳn không nhiều độc giả “dịch” được bức điện tín Bà mõm, Thối rồi. Về ngay! bà ốm, mất rồi, về ngay. Kiểu thông báo có tính chất mệnh lệnh với ngôn từ ít trang trọng vẫn có thể là lời của con cái dành cho bậc sinh thành Bao giờ ổn định con sẽ “cẩu” mẹ ra khỏi cái “làng Vũ Đại” Gió đồng se sắt – Đỗ Tiến Thụy. Đoạn văn sau đây trong Đại hùng kê Hòa Vang là bằng chứng của một thứ ngôn ngữ giao tiếp đáng kinh hãi xuất hiện đậm đặc trong truyện ngắn hôm nay Phéng mẹ nó một nhát với cái lão “hâm đơ” viêm màng túi mãn tính cùng đời ấy cho xong phắt đi… Chị mới sắp bốn mươi cái lơ thơ tơ liễu buông mành, sợ gì?… phây phây lắm, ngọt bột canh Ajinô Môtô lắm… Có một sự đối nghịch rõ rệt nếu soi xét bằng con mắt thực dụng giữa lão chồng hâm đơ và người vợ còn ngọt bột canh Ajinô Môtô lắm. Lời khuyên như thuyết phục hơn nhờ ngôn ngữ phố phường thời hiện đại. Trong hai thập niên trở lại đây, sự bùng nổ thông tin đã tác động đến ngôn ngữ đời sống và để lại dấu ấn khá rõ ở ngôn ngữ trần thuật. Từ ngữ chuyên môn trở nên phổ biến các thuật ngữ y học, tên các loại bệnh mới HIV-AIDS, viêm não Nhật Bản, sarc, dịch cúm gia cầm…; các khái niệm kinh tế tiền tệ công ty cổ phần, thị trường chứng khoán, cổ phiếu…, các ngôn từ đặc trưng thời đại kĩ thuật số, công nghệ thông tin thư điện tử, chat, truyền hình cáp, nối mạng, trực tuyến…. Những từ ngữ vốn chỉ mới xuất hiện gần đây cũng ùa vào tác phẩm cave gái làm tiền, ô-sin người giúp việc, gay người đồng tính, sếp cấp trên, víp nhân vật quan trọng… Ngôn ngữ thời đại a còng được sử dụng như những phương tiện biểu đạt mới. Xuất hiện cả dạng ngôn ngữ không dấu của người trần thuật lồng vào những đối đáp kiểu trò chuyện chat trên mạng internet Tại sao? Tình Yêu – Y Ban. Ưa chuộng tốc độ tinh thần của lối sống hiện đại, ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn sau đổi mới thường ngắn gọn, đơn nghĩa nhưng chứa nhiều thông tin. Chỉ vài dòng phát ngôn, người trần thuật vẫn có thể cung cấp và bình luận nhiều sự kiện đang diễn ra trong đời sống. Chẳng hạn, bằng ngôn ngữ cập nhật lồng vào lời kể chuyện, người trần thuật ẩn tàng trong Cuộn dây Lê Minh Khuê đã tải đến người đọc những vấn đề thời sự Mùa hè năm nay trái đất phập phồng những hiểm họa. Người Ruanđa bắn giết nhau… Người châu Âu chịu cái nóng khủng khiếp… Băng tuyết xuất hiện ở Zimbambuê… Bệnh AIDS lan tràn ở Đông Á… Ngôn ngữ hiện đại đã ùa vào truyện ngắn, chi phối các phát ngôn của người trần thuật. Nói cách khác, thông qua ngôn ngữ trần thuật, truyện ngắn đương đại đã kịp thời tái hiện sinh động bức tranh xã hội hôm nay, từ phương diện lời ăn tiếng nói của con người. 2. Dấu ấn văn hóa vùng miền trong ngôn ngữ trần thuật Chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ đời sống, ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn sau 1986 bộc lộ khá rõ đặc trưng văn hóa vùng miền. Phương ngữ được sử dụng có chủ ý chứ không chỉ thuần túy do chất giọng “bản địa” của nhà văn. Người trần thuật không những “tải” nội dung truyện kể mà còn “chuyển” những giá trị văn hóa nằm sâu dưới lớp ngôn ngữ. Có vẻ đẹp bình dị của vùng sông nước Cửu Long qua bờ kênh, con rạch, những cù lao xanh… Nguyễn Ngọc Tư. Có chất Huế đặc trưng mà độc giả chỉ có thể cảm nhận qua những phát ngôn cụ thể của người trần thuật Trần Thùy Mai. Chất thâm thúy miền Bắc hay kiểu hồn hậu miền đều được bộc lộ rõ nét. Dấu hiệu nhận biết có thể chỉ là những ngôn từ nhân xưng được đưa vào tác phẩm. Đó là cách nói của người miền Trung khi nhân vật lớn tiếng chửi Tổ cha mồ tổ con mô thằng mô độc mồm độc miệng nói con tau chết. Bà Thỏn – Trần Thanh Hà; là lời chào rặt tiếng địa phương được người trần thuật kể lại rõ ràng Họ gặp nhau Chào eng! Chào ả! Ôi cụ! Ôi mự! Nghe rộn rã trên đường Quê hương – Cao Hạnh. Là ngôn ngữ thuần Nam Bộ khi người trần thuật sử dụng lời ăn tiếng nói dân dã, khắc họa cuộc sống xứ sở miệt vườn Sống trong hồn người khác Ngọc Linh, Sông Hậu xuôi về Nguyễn Lập Em, Mùa gió Trần Minh Thuận… Qua ngôn ngữ trần thuật, phong tục tập quán từng miền cũng được thể hiện rõ nét. Có đời sống du mục hay lênh đênh theo gánh hát của người miền trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Biển người mênh mông, Cánh đồng bất tận. Có nếp sinh hoạt của người Hà Nội trong các khu phố cổ Phố cũ – Nguyễn Văn Thọ… Tuy vậy, thể hiện đậm đặc chất giọng địa phương và tạo thành một dòng văn học vùng miền chỉ có thể là mảng truyện ngắn Nam Bộ. Trong dòng truyện ngắn phương Nam ấy, Nguyễn Ngọc Tư được xem là một tác giả tiêu biểu với nhiều tác phẩm hay Dòng nhớ, Biển người mênh mông, Qua cầu nhớ người, Hiu hiu gió bấc… Đến với văn Ngọc Tư, độc giả có thể hình dung rất rõ về vùng đất Nam Bộ. Từ những mé đìa lục bình, đám trâm bầu, chòm quao, trái giác nấu canh chua bông súng đến cách gọi tên nhân vật anh Hai Nhớ, dì út Thu Lý, dì Tư, út Thà, Sáu Tâm… hay lời ăn tiếng nói thường ngày trời đất, đúng chóc hà, nói gì lãng xẹt vậy ta, nói chơi hoài, như vầy, chút đỉnh… đều gợi lên dáng hình thiên nhiên, con người xứ sở miền Nam. Có thể nói, với ngôn ngữ trần thuật mang đậm dấu ấn văn hóa vùng miền, truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi mới không những nhiều dáng vẻ mà còn rất gần gũi với đời sống con người. 3. Tính chất đa thanh trong ngôn ngữ trần thuật Truyện ngắn Việt đương đại không còn mang tính chất một giọng, đơn bè, như các thời kì trước. Ngay trong bản thân các phát ngôn của người trần thuật, cùng lúc có thể có cả lời trực tiếp hay những suy tư gián tiếp của nhân vật. Khảo sát tính chất đối thoại trong ngôn ngữ trần thuật hay lời nửa trực tiếp phát ngôn đồng thời của người trần thuật và nhân vật có thể thấy rõ tính chất đa thanh của ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn thời kì này. * Tính chất đối thoại trong ngôn ngữ trần thuật Đối thoại là một dạng lời phát ngôn trực tiếp, mang tính cá thể hóa cao của nhân vật khi tham gia giao tiếp. Trong truyện ngắn, hình thức đối thoại được sử dụng rộng rãi và có vai trò quan trọng trong việc biểu đạt nội dung. Có kiểu đối thoại theo hình thức phân vai, có kiểu lời thoại được nhấn mạnh nhờ những chỉ dẫn của người trần thuật nhằm giản lược hoạt động giao tiếp… Tuy nhiên, người trần thuật vẫn có thể biến lời thoại của nhân vật thành lời của bản thân. Đây là một dạng phát ngôn đặc biệt, thể hiện tính chất nhiều giọng của ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn đương đại. Ở một số tác phẩm, lời nhân vật không được sắp theo thứ tự đối đáp mà đan xen trong lời người trần thuật, nhất là khi người trần thuật là nhân vật xưng tôi, vừa kể chuyện vừa tham gia giao tiếp. Nghĩa là giữa những lời đối thoại, có khi vẫn có những phát ngôn lạc khỏi giao tiếp – những phát ngôn mang tính độc thoại của người trần thuật. Ẩn trong một vai giao tiếp, người trần thuật không chỉ trực tiếp trao đổi với nhân vật mà còn dễ dàng kể chuyện. Chẳng hạn như cách nói sau trong Người ở làng pháo Nguyễn Khải Bà vợ hỏi, một cân đỗ là bao nhiêu nhỉ, một ông khách vừa cười vừa nói, buôn bán như chị là đoảng, ở nhà quê không biết giá đỗ tương còn biết cái gì, một ngàn sáu bà chủ ạ. Chỉ một câu kể mà có thể chứa cả một đoạn trao đổi giữa hai nhân vật tham gia giao tiếp. Người trần thuật đã lược bỏ hoạt động đối thoại bằng lời chỉ dẫn bà vợ hỏi, ông khách vừa cười vừa nói nhằm tạo những điểm nhấn thông tin, biến lời đối thoại thành lời kể. Lời tác giả, lời người trần thuật, lời nhân vật lẫn vào nhau, tạo nên những tranh cãi, đối đáp. Ở truyện ngắn Huệ lấy chồng kiểu lời người trần thuật đan xen với lời thoại nhân vật cũng được Nguyễn Ngọc Tư sử dụng nhằm làm tăng hiệu quả biểu đạt. Đây là lời kể xen lẫn trong những đối đáp giữa hai nhân vật Huệ và Điềm Huệ cười, người ta vậy, mầy còn nhắc làm chi a. Mà, sao bữa nay nghe gió lạnh quá chừng, gió te tái đưa tới một tiếng gà đang gáy, nghe từng giọt, từng tiếng buồn thỉu b. Bằng cách giữ nguyên lời nói của nhân vật trong câu kể, người trần thuật ở đoạn văn trên đã chuyển từ lời đối thoại sang lời độc thoại. Nếu a là lời kể của người trần thuật mệnh đề Huệ cười mang hàm ý đối thoại hướng tới đối tượng giao tiếp là Điềm mầy còn nhắc làm chi thì b đã nghiêng sang dạng độc thoại có hướng. Vẫn như đang nói với Điềm, song cái cảm giác buồn thỉu bởi gió lạnh, bởi tiếng gà te tái chỉ có thể là của riêng Huệ trước ngày xuất giá, khi bóng dáng người cũ chưa hẳn đã phôi phai… Rõ ràng, kiểu trần thuật “nhiều giọng” đã giúp độc giả thâm nhập sâu hơn vào thế giới nội tâm nhân vật. Sự chuyển đổi từ lời đối thoại sang lời kể đã làm lạ hóa kiểu trần thuật đơn âm, tiến tới một kiểu trần thuật đa giọng điệu. * Lời nửa trực tiếp Nếu lời gián tiếp là lời người trần thuật ngôi ba kể về đối tượng; lời trực tiếp là lời nhân vật được truyền đạt thông qua độc thoại và đối thoại; thì lời nửa trực tiếp là kiểu lời nói kết hợp đồng thời hai hình thức phát ngôn gián tiếp bởi người trần thuật và trực tiếp bởi nhân vật nói trên. Lời nửa trực tiếp là “lời của nhân vật có bề ngoài thuộc về tác giả về mặt chấm câu, ngữ pháp nhưng về nội dung và phong cách lại thuộc về nhân vật”2. Trong truyện kể, ngôn ngữ tác giả chủ yếu lại được thể hiện bởi ngôn ngữ người trần thuật, nên xét từ phương diện trần thuật học, có thể xem lời nửa trực tiếp là lời người trần thuật nhưng mang ngôn ngữ nhân vật xuất phát từ điểm nhìn nhân vật. Đây là kiểu “câu hàm ẩn nhiều chủ thể”, “câu lai ghép”, theo cách gọi của Bakhtin. Một trong những đặc điểm cơ bản của lời nửa trực tiếp là tính song điệu giọng người kể và giọng nhân vật lẫn vào nhau. Đây là kiểu lời nói có sự hòa trộn giữa ngôn ngữ người trần thuật ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ nhân vật. Đoạn văn sau là một ví dụ Lúc về Diệp ôm vai mẹ, Diệp bảo mớ khô cá sặc rằn này hôm nào mẹ tiễn con đi, mẹ nướng rồi xé trộn xoài sống, con thích món này lắm. Nước chảy mây trôi – Nguyễn Ngọc Tư. Thông điệp Diệp ôm vai mẹ, Diệp bảo thích món cá khô trộn xoài sống bao hàm cả hành động của nhân vật được người trần thuật truyền đạt lại. Lời kể này chứa đựng ngôn ngữ nói biểu cảm của nhân vật nên lời người trần thuật và lời nhân vật hoà vào nhau. Không đơn nghĩa như lời trực tiếp, lời nửa trực tiếp thường mở ra nhiều hướng tiếp nhận, trở thành kiểu lời nói đặc trưng cho ngôn ngữ trần thuật phức hợp, đa thanh. Từ sau 1986, truyện ngắn Việt hay sử dụng kiểu lời nửa trực tiếp để đến gần với cuộc sống đa chiều. Đây là phương thức trần thuật gắn với tư duy lí luận hiện đại, có hiệu quả trong việc khám phá dòng tâm trạng – phương diện bộc lộ rõ nhất tư duy phức hợp của con người. Lời nửa trực tiếp có thể cơi nới khuôn khổ truyện ngắn, giúp độc giả khám phá mạch ngầm văn bản, đi sâu vào tâm trạng, bản thể con người với những hồi cố, tự bạch, dòng ý thức lẫn trong giọng kể khách quan của người trần thuật. Về biển Phan Triều Hải, Bụt mệt Hòa Vang, Qua sông hoa Phạm Trung Khâu… là một số tác phẩm sử dụng đắc địa lời nửa trực tiếp. Đây là một đoạn văn được phát ngôn bởi người trần thuật, nhưng lại khoác lớp ngôn ngữ của nhân vật trong truyện ngắn Phan Triều Hải “Bà lẩm bẩm, “mười ba sao rét thế nhỉ”, rồi bà chợt nhớ phải có một cái gì đó để quên rét. Ừ. Quên rét cũng như quên chồng. Phải có một cái gì đó để vùi đầu vào, để tất cả lẫn lộn lên, để không gì còn định hình được nữa. Lúc ấy là quên”3 Những lá thư mùa đông. Ở đây, giọng người trần thuật và nhân vật đan cài vào nhau đến mức khó phân biệt rạch ròi ở những lời nửa trực tiếp với hai chủ thể phát ngôn đồng thời người trần thuật và nhân vật chủ thể hàm ẩn. Không đồng nhất với độc thoại nội tâm, song phần lớn lời nửa trực tiếp đều gắn với ngôn ngữ độc thoại và dòng tâm tư của nhân vật. Đó là trường hợp lời kể của người trần thuật xen lẫn trong chuỗi độc thoại của nhân vật ở Kịch bản Trần Thanh Hà, Chuyến đi săn cuối cùng Sương Nguyệt Minh, Hạnh Nguyễn Thị Minh Dậu, Con thú Dương Quốc Hải… Dòng tâm trạng nhân vật đan xen trong lời người trần thuật cũng là một biến thái khác của lời nửa trực tiếp. Nó là ý nghĩ mang ngôn ngữ bên trong của nhân vật song tồn tại như những diễn từ của người trần thuật nhân danh nhân vật. Trong Có một thời yêu Vũ Thị Hồng, sau những dẫn dắt của người trần thuật là dòng hồi ức tuôn trào của nhân vật Quá khứ như một cuốn phim quay chậm, dửng dưng, tàn nhẫn diễn ra trong óc người đàn ông a. Tất cả không sót một chút gì b. Bắt đầu từ cái buổi đi lấy gạo đáng nguyền rủa ấy chăng? c. Không, phải bắt đầu từ trận tập kích vào Gò Chùa trước đó khi cả tiểu đội ta bị xóa sổ d… Ta bắt đầu nuôi ý định chạy trốn e… Lời nửa trực tiếp ở câu b, c đã dẫn dắt độc giả từ việc nghe kể a đến việc thâm nhập vào chuỗi độc thoại của nhân vật d,e. Lời người trần thuật ngôi ba khi vừa trực tiếp kể chuyện, vừa để câu chuyện được tự bật lên thông qua dòng ý thức của nhân vật, là dạng ngôn ngữ đặc trưng của lời nửa trực tiếp. Sử dụng đặc biệt thành công lời nửa trực tiếp không thể không nhắc đến cây bút trẻ Nguyễn Ngọc Tư. Từ điểm nhìn nhân vật, mượn ngôn ngữ, giọng điệu nhân vật, người trần thuật trong nhiều tác phẩm của nhà văn nữ này đã duyên dáng kể chuyện với con mắt tinh tường của người trong cuộc. Đó là ngôn ngữ trong trẻo nhưng nhiều suy tư của Diệp ở những độc thoại nội tâm được “thốt lên” bởi người trần thuật Đâu nè, đâu phải muốn là làm, cũng phải suy nghĩ đắn đo dữ lắm. Coi lại, làm gì có chuyện con người được sống hồn nhiên như nước chảy mây trôi? Phải chọn lựa và trả giá chớ… Nước chảy mây trôi. Đó là lời nói đầy yêu thương mà người trần thuật chỉ có thể có được từ ngôn ngữ độc thoại của trái tim người mẹ Có nên nói hay không lời xưa rày má thường dạy thằng con trai lớn, rằng sống trên đời, thấy phải thì làm, mà làm cũng đừng nghĩ sẽ được đáp đền xứng đáng, vì có những thứ quý giá lắm, chẳng gì bù đắp được đâu” Qua cầu nhớ người… Ngôn ngữ trần thuật trở nên giàu sức gợi nhờ những lời nửa trực tiếp. Những câu chuyện đời người trong tác phẩm Nguyễn Ngọc Tư càng sâu sắc, lan tỏa mãi trong lòng người. Tính chất đa thanh trong ngôn ngữ trần thuật hôm nay xuất phát từ việc tổ chức đồng thời những tiếng nói khác nhau. Sự xen lẫn của lời thoại nhân vật vào lời kể và đặc biệt là hình thức lời nửa trực tiếp đã góp phần làm mới nghệ thuật kể chuyện, cho thấy ý thức sử dụng ngôn ngữ có chủ ý của các cây bút truyện ngắn đương đại. Xem thêm Một cách tiếp cận truyện ngắn Việt Nam đương đại Trong những nỗ lực cách tân, việc đổi mới ngôn ngữ trần thuật là một thành công không thể phủ nhận của truyện ngắn Việt Nam từ sau 1986. Với cách vận dụng linh hoạt ngôn ngữ đời sống, ngôn ngữ vùng miền; và nhất là với cách tổ chức đồng thời nhiều tiếng nói khác nhau, người trần thuật có vai trò quan trọng trong việc cấu trúc tác phẩm, dẫn dắt mạch truyện. Khảo sát các phát ngôn trong văn bản truyện kể, độc giả có thể phần nào hình dung dược diện mạo của người trần thuật. Hơn thế, thông qua ngôn ngữ trần thuật người đọc còn có thể nhận diện những đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ truyện ngắn hôm nay. Thái Phan Vàng Anh 1 Lại Nguyên Ân 1999, 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội, tr 338. 2 Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi 1999, Từ điển thuật ngữ văn học, NXB ĐHQG, Hà Nội. 3 Người viết nhấn mạnh. Để hình thành một bài văn hay bạn cần sử dụng tới rất nhiều loại câu như câu hỏi tu từ, câu cảm thán,... tuy nhiên mẫu câu được sử dụng nhiều nhất có lẽ là câu trần thuật. Vậy câu trần thuật là gì? Đặc điểm của câu trần thuật ra sao và viết như thế nào mới đúng? Tất cả những thắc mắc vừa rồi sẽ được giải đáp qua bài viết dưới đây. 1. Khái niệm câu trần thuật là gì? Câu trần thuật là một trong các kiểu văn bản và phương thức biểu đạt hay còn được hiểu là mẫu câu thuật lại sự việc, hành động hay sự kiện đã diễn ra ở thời điểm trước đó. Mục đích chính của mẫu câu này chính là dùng để kể lại, miêu tả, thông báo hay nhận định về vấn đề, hiện tượng hay trạng thái của sự vật nào đó. Khái niệm câu trần thuật là gì? Khi sử dụng mẫu câu trần thuật người ta không dùng nghệ nhuật nhấn nhá để gây sự chú ý. Chúng sẽ được nói với giọng nói bình thường, đôi khi có xen lẫn một số từ biểu cảm nhưng mục đích thì vẫn không hề thay đổi. Thông thường, trong giao tiếp người ta dùng câu trần thuật để thuật lại sự việc vậy nên câu trần thuật còn được gọi với cái tên khác là “câu kể”. >> Xem thêm Làm sao để học giỏi văn 2. Đặc điểm của câu trần thuật Nhìn thì có vẻ đơn giản nhưng đừng vội mừng bởi vì bạn cũng cần bỏ thời gian để nắm rõ bản chất cũng như đặc điểm của mẫu câu này nếu như có ý định chinh phục môn Văn đấy nhé. Sau đây là một số đặc điểm nổi bật có ở câu trần thuật, mời bạn tham khảo - Câu trần thuật nên sử dụng để mô tả, tường thuật hay trình bày lại sự việc nào đó mà bạn được chứng kiến trực tiếp, không nên nghe từ nhiều người khác nhau mà áp dụng mẫu câu này, nó sẽ ảnh hưởng tới kết quả cuối cùng. Đặc điểm của câu trần thuật - Câu trần thuật cũng mang đặc điểm về hình thức như các loại câu nghi vấn, câu cảm thán hay câu cầu khiến. - Mỗi khi kết thúc câu trần thuật, hãy sử dụng dấu chấm để người đọc phân biệt với các câu khác. Nếu câu mang nội dung đặc biệt mà bạn muốn nhấn mạnh thì có thể sử dụng dấu chấm than hay chấm lửng để thu hút người đọc. Nói chung, câu trần thuật thì không có quá nhiều đặc điểm, chủ yếu là những kiến thức cơ bản vừa rồi, chỉ cần nắm rõ chúng thì bạn sẽ biết cách sử dụng trong các trường hợp khác. 3. Câu trần thuật có chức năng gì? Tìm hiểu đặc điểm của câu trần thuật đã xong, vậy bạn có biết chức năng của mẫu câu này là gì không? Câu trần thuật thường không có dấu hiệu để người đọc nhận biết, trong một đoạn văn có thể có rất nhiều câu trần thuật khác nhau. Vì vậy người đọc cần phải đọc và quan sát thật kỹ để nhận ra đâu là câu trần thuật và hiểu rõ dụng ý của người viết. Một dấu hiệu đơn giản nhất mà bạn có thể nhận biết đó chính là dấu chấm câu, vậy hãy dựa vào đây để phán đoán nhé. Câu trần thuật có chức năng gì? Những ai đã tìm hiểu về câu trần thuật thì có thể dễ dàng nhận ra rằng câu trần thuật là thành phần chính trong các bài văn viết, văn xuôi hay tiểu thuyết dài tập,... Nói cách khác nó góp phần tạo nên những tác phẩm văn học nổi tiếng và đặc sắc trong các thể loại văn học Việt Nam cả xưa và nay. Chức năng chính của câu trần thuật là kể hoặc tường thuật, tuy nhiên diễn tả như thế nào thì còn tuỳ vào cách nhìn nhận và cách hành văn của người viết. Đôi khi, câu trần thuật còn được sử dụng để yêu cầu, bộc lộ cảm xúc của người viết về một sự vật, hiện tượng nào đó. >> Xem thêm Dạy tiếng việt cho người Hàn 4. Đặt câu trần thuật như thế nào mới đúng? Bạn đã biết đặt câu trần thuật chuẩn như thế nào chưa? Có thể trước đây bạn đã từng được học, thậm chí là học rất kỹ thế nhưng do thời gian và hoàn cảnh thì hiện tại trí nhớ của bạn lại chẳng có chút ấn tượng nào về nó. Giúp các bạn tìm lại ký ức về bài học này, biết cách đặt câu trần thuật sao cho đúng, đã tổng hợp và chia sẻ một số kiến thức hữu ích dưới đây Tìm mục đích sử dụng câu trần thuật Khi bàn luận về một vấn đề nào đó, điều quan trọng nhất là bạn phải xác định được mục đích của những điều mình nói. Với câu trần thuật, rất nhiều mục đích khác nhau mà bạn có thể chọn, vậy nên để sử dụng đúng nhất mẫu câu này thì cần xác định mục đích đúng đắn. Đặt câu trần thuật như thế nào mới đúng? Cần xác định thành phần chủ chốt của câu trần thuật Bài học về câu trần thuật có thể khiến bạn quên thế nhưng có lẽ kiến thức về cấu trúc của câu thì hẳn là bạn vẫn còn nhớ chứ. Một câu bình thường hoàn chỉnh sẽ bao gồm chủ ngữ và vị ngữ. Vậy nên nếu không thể thêm các tiền tố, hậu tố bên cạnh thì bạn cũng đừng lược bỏ bớt đi thành phần của nó nhé. Hãy đặt câu với đầy đủ chủ ngữ và vị ngữ, tất nhiên đó phải là câu có nghĩa và phù hợp với hoàn cảnh mà bạn đang giao tiếp. >> Xem thêm Bài viết về mùa xuân Bổ sung các thành phần phụ trong câu trần thuật Một câu nói chỉ có chủ ngữ và vị ngữ chắc chắn sẽ rất thô cứng, để câu trần thuật của bạn trở nên sâu sắc hơn, linh hoạt hơn thì hãy thêm các thành phần phụ vào nhé. Bổ sung các thành phần phụ trong câu trần thuật Một số thành phần mà bạn có thể thêm đó là trạng ngữ hay phụ từ,... có thêm những thành phần này bạn sẽ sở hữu câu trần thuật hoàn chỉnh. Trình bày câu trần thuật chuẩn mẫu Cuối cùng, để có câu trần thuật hoàn hảo thì người viết cần chú ý tới cả hình thức trình bày nhé. Nội dung rất quan trọng tuy nhiên cách trình bày cũng khiến người khác đánh giá về bạn theo một khía cạnh khác. Hãy chú ý tới chính tả trong câu, viết hoa với chữ cái đầu câu, để lại dấu chấm khi kết thúc câu và đọc lại toàn bộ khi viết xong để soát lỗi nhé. 5. Lưu ý khi đặt câu trần thuật Câu trần thuật có trường hợp đặc biệt đó là câu phủ định. Loại câu này lại được chia thành 2 thành phần chính là phủ định miêu tả và phủ định mang tính bác bỏ. Lưu ý khi đặt câu trần thuật Ví dụ - Câu phủ định miêu tả “Bạn ăn gì mà ăn” - Câu phủ định bác bỏ “ Không có chuyện bạn Hoa đã làm chuyện như vậy với mình đâu” Xem thêm Cách dạy bé học chữ cái 6. Ví dụ về câu trần thuật Để bạn đọc hiểu rõ hơn về câu trần thuật, tôi sẽ gửi tới các bạn một số ví dụ ở nội dung bên dưới, theo dõi để áp dụng hiệu quả mỗi khi giao tiếp bạn nhé Ví dụ 1 Trời mưa rất to nên em không thể về nhà được. Đây là câu trần thuật có nội dung khá đơn giản, qua đó bạn hoàn toàn có thể hiểu được câu chuyện mà người viết muốn truyền đạt. Vì là trời mưa rất to nên nhân vật trong câu chuyện này không thể về nhà được. Ví dụ 2 Bố em là công nhân xây dựng Đây là một mẫu câu trần thuật có dạng thông báo, chủ ngữ là “Bố em” và vị ngữ là “là công nhân xây dựng” … Ví dụ về câu trần thuật Như vậy tôi và bạn vừa cùng nhau tìm hiểu xong một vài thông tin về câu trần thuật. Hy vọng qua bài viết, bạn đọc sẽ hiểu bản chất câu trần thuật là gì, đồng thời nắm rõ các đặc điểm, chức năng và cách đặt câu trần thuật sao cho đúng. Khám phá những điều thú vị có ở Không chỉ là câu trần thuật, bạn còn có thể khám phá với hàng ngàn thông tin hấp dẫn khác tại Đây không những là kho tàng tri thức mà còn là nơi tiếp nối đam mê cho các bạn trẻ mong muốn tìm được việc làm đúng chuyên ngành. Thế giới thu nhỏ này sẽ đem lại cho bạn những gì? Trải nghiệm ngay để có những thông tin hữu ích nhất nhé. Từ khóa liên quan Chuyên mục

phương thức trần thuật